Thời Đại Nông Nghiệp
(Agriculture Age)
(Agriculture Age)
Tác Giả : Phạm Văn Bản | Nguồn: email của tác giả | Ngày đăng :2024-07-05 |
Tác giả đứng tại Pyramid Chichen Itza là nơi tính niên lịch theo mặt trăng
Mười ngàn năm nay đợt sóng thay đổi đầu tiên (First Wave) khi con người biết trồng trọt, chăn nuôi, thuần hóa thú vật, xây dựng làng nước, và Thời Đại Nông Nghiệp (Agriculture Age) ra đời đánh dấu một bước tiến vĩ đại của nhân loại. Trong đời sống nông nghiệp, con người phát sinh và đòi hỏi nhiều loại nhu cầu của thời đai như nhu cầu kinh tế là đất, nước và hạt giống (land & seed), nhu cầu chính trị là quân chủ, nhu cầu xã hội là tôn giáo hay định đoạt ra một bảng giá trị thời đại làm khuôn vàng thước ngọc cho loài người sau bao triệu năm con người sống trong Thời Đại Tiền Sử (PreHistory)
Thời đại nông nghiệp cũng chia thành ba giai đoạn: tiền nông, trung nông, và hậu nông nghiệp. Biểu tượng thời đại nông nghiệp là cái cày. Ông Tổ là Thần Nông.
Thoạt tiên con người mới chỉ sáng chế ra bắp cày trang bị lưỡi gỗ do sức người kéo. Nhưng theo giòng thời gian vài ngàn năm sau người ta chế tạo lưỡi đồng, lưỡi sắt thay cho lưỡi gỗ, cày đất ruộng thâm sâu màu mỡ hơn, và dùng sức kéo trâu bò thay thế sức người.
Con người biết vun xới trồng tỉa, làm ăn thành công nhờ sức mạnh bắp thịt, được gọi là thời đại cơ năng, tiêu biểu vai u thịt bắp trai tráng nông thôn. Đời sống nông nghiệp con người gắn bó với điều kiện thiên nhiên, khí tượng, thời tiết và văn chương, chữ nghĩa, thi phú ra đời.
Phương Tây tính thời vụ mùa màng theo dương lịch, mặt trời đối chiếu với các nấc thang trên Kim Tự Tháp Ai Cập (Pyramid Egypt Giza lại tính theo mặt trời) để tính ra niên lịch, thời giờ, ngày tháng. Phương Đông thì tính thời khắc theo mặt trăng với con nước thủy triều lên xuống làm âm lịch, và nhìn chòm sao Thần Nông để biết thời lượng cày cấy gieo trồng, và mặt trăng cũng được đối chiếu với 13 nấc thang trên Kim Tự Tháp Mễ Tây Cơ (Pyramid Chichen Itza tính niên lịch theo mặt trăng).
Con người sống phù hợp với môi trường sinh nhai quen thuộc, tuần tự theo chu kỳ vũ trụ như trái đất xoay quanh mặt trời, mặt trăng xoay quanh trái đất và trở thành định luật bất di bất dịch trong cuộc sống dân làng. Cũng từ đó con người phát sinh tư tưởng, luân lý, đạo đức, tôn giáo làm khuôn mẫu cho đời sống xã hội.
Văn chương thi phú phát xuất và thịnh hành từ thời đại nông nghiệp, nhưng tiến sang thời đại công nghiệp hay thời đại tín nghiệp thì chỉ còn văn chương mà thi phú đều bị phai nhạt dần!
I. Kinh Tế Thần Nông
Con người biết cách làm nông, cày cấy, chài lưới và sản xuất lương thực càng ngày dồi dào, nuôi sống gia đình. Đời sống nông dân sung túc, thịnh vượng, gia tăng nhân khẩu thì nhu cầu đất đai càng ngày càng hạn hẹp, do đó ràng buộc mọi người phải sống tụ tập thành ấp thành làng thành nước để dễ dàng chia phần ruộng đất, sinh hoạt gia tộc, nâng cao mức sống.
Cải tiến không ngừng trong việc chăn nuôi, trồng trọt, cày cấy, dẫn thủy nhập điền, trị nước tránh ngập… thì ông tổ Thần Nông ra đời hướng dẫn mọi người về phương cách làm ruộng, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Thần Nông được thờ kính ở đình làng và trong nhiều lễ hội.
Lễ tịch điền tổ chức khi gặt hái, Lễ hạ điền trước khi gieo trồng, và Lễ cầu bông khi lúa trổ hạt. Thần Nông còn được dùng đặt tên cho chòm sao trên trời, giúp cho nông dân đối chiếu với con nước thủy triều để biết tính toán thời vụ cấy cày.
II. Làng Xã Nông Nghiệp
Con người biết chế tạo vật dụng, mở rộng canh tác, sản xuất lương thực và dẫn đưa xã hội bộ tộc tiến lên xã hội thôn ấp vào thời kỳ tiền nông. Thời đại này con người cần ruộng đất canh tác, cho nên cương vực lãnh thổ được đánh dấu bằng những hình thể địa dư như sông ngòi, đồi núi có thể xác nhận.
Và khi con người có văn tự, có bản đồ, có đo đạc ấn định trong việc phân chia ranh giới và công nhận của hai hoặc nhiều đơn vị, thì lãnh thổ mở rộng hay hẹp là tùy thuộc vào quyền lực chính trị. Do đó mà có đất nước lớn hay nhỏ, làng xã rộng hay hẹp.
1. Đất Nước Nông Nghiệp
Con người tiến tới giai đoạn biết đóng tàu thuyền, ghe chài, thuần hóa ngựa cỡi, nuôi trâu bò kéo xe kéo cày làm thay đổi bộ mặt xã hội, di chuyển thuận lợi, vận tốc nhanh chóng. Bởi thế nhiều làng đã liên kết thành một nước, gọi là làng xã với hệ thống tổ chức điều hợp chính trị, triều đình vua quan, thuộc thời kỳ trung nông với quốc gia nông nghiệp.
Quốc gia phát triển khi gia tăng dân số và nhu cầu đòi hỏi con người phải có hệ thống sản xuất nông nghiệp, hệ thống cung cấp thực phẩm, hệ thống dẫn thủy nhập điền nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của toàn dân. Do đó triều đình phải thành lập hệ thống quân đội quốc phòng, bào đảm an ninh và bảo vệ tài nguyên.
Theo làn sóng văn minh nông nghiệp phát nguồn từ Trung Đông tiến qua các nước Ai Cập, Đông Nam Châu Á… xuất hiện nhiều chiến lũy, chiến hào, chiến đài. Phương Đông có chùa tháp lộng lẫy, phương Tây với thánh đường đồ xộ nguy nga tráng lệ, không thua kém cung điện triều đình vua quan.
2. Xã Hội Trung Hoa
Truyền thuyết kinh tế nông nghiệp Trung Hoa, khởi đầu từ thời Nhà Thương, ruộng đất công nhận là của chung, của bộ tộc. Tới thời Nhà Chu áp dụng phép tĩnh điền, chia ruộng đất thành 9 khu hình chữ tĩnh – khu đất ở giữa có cái giếng nước được gọi là công điền, còn 8 khu kia phát cho các bộ tộc canh tác hưởng lợi. Khu công điền thì các bộ tộc cày cấy và nộp thuế cho triều đình nhà vua.
Tới thời Xuân Thu, Thượng Ưởng làm tướng Nhà Tần phế bỏ tĩnh điền, áp dụng pháp gia, xóa bờ ruộng, khai thiên mạch, hướng dẫn cách canh tác mới và cho mọi người được quyền tư điền, nạp địa tô vật phẩm cho triều đình, thay thế địa tô sưu dịch của phép tĩnh điền. Thống nhất đo lường, đo đạc (hộc, thùng, cân, thước, tấc) nhờ đó việc đánh thuế được gia tăng.
Phân cư và điều hợp các xóm làng thành huyện và cắt cử quan lại trông coi. Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất đất nước áp dụng chính sách trung ương tập quyền, hủy bỏ phép tĩnh điền và truất phế thế lực của 8 bộ tộc đã từng khuynh đảo nền chính trị Trung Hoa thời đó.
3. Xã Hội Việt Nam
Xã Hội Đồng Bào, Xã Hội Anh Em, Bọc Mẹ Trăm Con của Chánh Thuyết Tiên Rồng, một tuyệt tác chính trị của Tổ Tiên.
Khác biệt với phép tĩnh điền của Trung Quốc, triều đình Việt Nam áp dụng và điều hành phép quân điền, là công điền công thổ và chia đất định kỳ tạo ra công bằng xã hội. Chế độ điền thổ của Việt Nam, theo nguyên tắc là của chung, của công — của vua.
Vua là người đại diện tối thượng có quyền sở hữu và cấp phát ruộng đất cho toàn dân. Mọi người dân đều được hưởng quyền tư hữu, lãnh đất canh tác, sở hữu hoa lợi và đóng thuế cho triều đình.
Tới thời nhà Trần, Lê Quý Ly lại đề xướng chính sách hạn điền, vì dân số gia tăng và yêu cầu người nào có hơn 10 mẫu đất, thì phải nộp số ruộng dư làm của công. Tuy rằng nhà vua có quyền sở hữu, nhưng chủ quyền hưởng dụng do làng xã tự quản, gọi là công điền công thổ để phân phát cho mọi người dân làng.
Luật điền thổ thời đó cấm không ai được quyền trao đổi, buôn bán hay sang nhượng đất đai làm của riêng. Thời gian phân bổ ruộng vườn là cứ mỗi ba năm, làng lại chia đất lại cho mọi người.
Vì rằng số con cháu gia tộc trong làng tới tuổi trưởng thành khôn lớn, là tráng đinh thì được hưởng quân cấp khẩu phần và tư hữu ruộng đất.
Ngoài số ruộng chia cho dân trong làng tự túc canh tác và có quyền tư hữu, làng cũng còn giữ lại một số khoản đất để làm công quỹ của làng:
a. Bút Điền là ruộng cho thuê, nộp tô dùng chi phí về sổ sách giấy tờ trong việc điều hành quản trị dân làng.
b. Trợ Điền là ruộng trích ra nhằm thực hiện những chương trình xã hội, cứu trợ hay giúp cho những ai gặp khó khăn trong việc đóng thuế đinh, thuế thân.
c. Học Điền là ruộng dành giúp cho hội tư văn, có quỹ đi thuê thày dạy học cho con em dân làng, hoặc tu bổ, mở mang thêm trường lớp.
d. Cô Nhi Quả Phụ Điền là đất dành để giúp cho con trẻ mồ côi, góa phụ nghèo túng hay đơn thân hoạn nạn.
Tổng quan về chính sách ruộng đất của Việt Nam là một điểm son trong lịch sử, và khác biệt với các chính sách điền địa của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Đại Hàn.
4. Làng Xã Tự Chủ
Đặc tính Làng Xã Việt Nam là người dân tự ý tới ở, tự quy thành làng, tự quyết cuộc sống. Tuy có nhiều cách khởi sự lập làng khác nhau, nhưng điều kiện tiên quyết trong việc lập làng vẫn là sự tự quyết và ích lợi của mọi người quy tụ, không ai buộc ai, tự do chọn lựa.
Tụ họp thành làng, mọi người chia sẻ cho nhau cảnh sống vui buồn sướng khổ, giúp nhau vượt thắng những khó khăn, cùng nhau gánh vác trách nhiệm, cùng nhau xây đắp cho đời, cho làng cho nước ngày một thêm giầu đẹp thanh bình. Làng cũng không bó buộc ai phải cư trú ở một nơi nhất định, người dân có thể tới ở hay tự ý bỏ đi, miễn là chấp nhận lệ làng khi muốn gia nhập.
Khác với tổ chức chính trị của nhiều quốc gia đương thời, quyền hạn vua quan Việt Nam chẳng những không can thiệp vào đời sống của từng người dân, mà cũng không xâm phạm vào nếp sống sinh hoạt của các làng. Đối với triều đình, mỗi làng là một quốc gia thu hẹp có chủ quyền, tự do và độc lập, việc làng thì dân chúng tự lập tự quyết.
Làng tự lập chẳng những có ban điều hành do chính dân bầu ra, mà còn có luật lệ theo hệ thống hương ước và hành chính của làng. Làng có ngôi đình thờ vị Thành Hoàng, với nghi thức truyền thống tự quản. Làng có lực lượng trị an với tiêu chuẩn thưởng phạt minh bạch do làng quy định. Làng cũng có tài sản riêng và có toàn quyền xử dụng ngân sách theo nhu cầu người dân trong làng.
Trong phạm vi làng xã Việt Nam, cả quyền phép của vua quan cũng phải kiêng nể trước hương ước, điều lệ riêng của làng, “Phép vua thua lệ làng.” Bởi thế làng xã Việt Nam đã thể hiện một chế độ trực tiếp do dân, của dân, vì dân hơn bất cứ thể chế chính trị nào khác.
III. Nước Làng Nông Nghiệp
Khi góp phần vào việc nước, làng là đơn vị đại diện người dân. Trong truyền thống chính trị Việt, người dân không trực tiếp với vua quan mà phải qua làng.
Trong tất cả mọi việc từ tiếp xúc, lệnh truyền, tới sưu thuế lính tráng của nước, triều đình Việt Nam chỉ căn cứ vào làng, liên lạc với làng và tùy thuộc khả năng của làng mà định phần đóng góp.
Do đó, làng là đơn vị nền tảng của cơ cấu chính trị, của chính quyền nước. Đang khi gia đình là đơn vị nền tảng của cộng đồng xã hội, của dân tộc.
Khác biệt với nhiều thể chế chính trị trên thế giới, người dân Việt không phải đơn độc đương đầu với cơ quan quyền lực, mà đã được họ hàng thân thuộc trong làng hỗ trợ, miễn sao làng chu toàn nhiệm vụ công tác với nước. Đối với người dân Việt, làng là bức tường che chắn, mái ấm bảo bọc, cuộc đời bảo đảm vật chất và tinh thần, vừa thực tế lại vừa pháp lý.
Làng thôn Việt không phải là nếp sống tự phát hay vô tổ chức, mà được Tổ Tiên tạo thành một thể chế chính trị độc đáo, nhân bản, tuyệt vời, là một định chế làng nước thể hiện trong Chánh Thuyết Tiên Rồng.
IV. Đế Quốc Nông Nghiệp
Đang khi Việt Nam sống theo hệ thống làng nước trong chế độ quân chủ pháp trị, thì nhiều quốc gia lại thực hiện “đế quốc nông nghiệp.”
Nhiều nước mạnh ở phương Đông hay phương Tây vào thời kỳ hậu nông nghiệp đã phát triển kinh tế vững mạnh, tìm thị trường tiêu thụ, đem quân đánh chiếm nước lân bang làm thuộc địa và khai thác tài nguyên khoáng sản. Thực dân xâm lược áp dụng chính sách bành trướng và trở thành đế quốc.
1. Chính Trị Nông Nghiệp
Những nước có nguồn gốc du mục — phụ hệ — thường chú trọng tới sức mạnh quân sự, các mặt liên quan đời sống dân sự chỉ là phụ thuộc. Họ tổ chức binh lực để dập tắt các cuộc nổi loạn hay muốn thay đổi chính quyền, đề phòng ngoại xâm, mở chiến tranh xâm lấn các nước lân bang, tiêu diệt hay cưỡng chiếm các bộ lạc chậm tiến, chưa kịp theo đà biến đổi, cải tiến chính trị quân chủ.
Trong nước thì họ dùng võ lực để trị dân, áp dụng hình pháp nghiêm nhặt triệt để gọi là võ trị.
Những nước có nguồn gốc nông nghiệp — mẫu hệ — thì chú trọng tới việc giáo hóa, hướng dẫn chăm lo đời sống ấm no hạnh phúc của dân, võ lực không phải là điều chính yếu trong việc tổ chức cai trị dân. Hình thức cai trị này là văn trị.
Thời tiền quân chủ, các quốc gia có nguồn gốc du mục áp dụng võ trị, nặng hình thức trừng phạt mà hình luật thì lại vô tình. Đang khi quốc gia có nguồn gốc nông nghiệp dùng văn trị, thì chú trọng việc giáo hóa, sửa đổi con người và nặng tình hơn lý.
2. Quân Chủ Phong Kiến
Phong Hầu Kiến Địa cắt đất tặng cho công thần. Vua tặng thưởng cho người có công như tiền của, tặng phẩm tặng vật hay chức vị, để làm động lực thúc đẩy lòng hăng say của người phục vụ chế độ.
Đối với chức quan nhỏ, văn hay võ, khi có công thì được thăng lên chức vị tương xứng. Nhưng hàng tướng lãnh, hay quan nhất phẩm của triều đình hoàng tộc, thì tiền bạc hay chức tước đã trở thành bình thường thứ yếu, vì mọi người đều có.
Do đó nhà vua phải cắt đất tặng cho công thần, để họ có toàn quyền xử dụng đất đai, lối tưởng thưởng này được gọi là phong kiến — phong hầu kiến địa.
Nhờ lối tổ chức cai trị theo hình thức phong kiến đã giúp cho xã hội con người phát triển ổn định và điều hòa trong nhiều ngàn năm. Nhưng sau vì có nhiều lãnh chúa hay tiểu quốc vương trên các lãnh địa gây hấn, xâm lấn, tiêu diệt lẫn nhau trong thời gian dài mấy trăm năm, họ đưa xã hội vào vòng hỗn loạn bế tắc.
Bởi đó mà hình thức cai trị mới ra đời từ Âu sang Á, đặc biệt là Trung Hoa vào năm 221 trước Tây lịch, Tần Thủy Hoàng thành công trong chính sách “Diệt lục quốc thống nhất thiên hạ” đổi thể chế phong kiến ra “quân chủ chuyên chế.”
3. Quân Chủ Chuyên Chế
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, sau bao trăm năm chiến tranh giữa các tiểu vương quốc, Tần Thủy Hoàng dùng bạo lực cưỡng chiếm các lân quốc, đặt lại quyền thống trị các lãnh thổ chiếm được, truất phế quyền bính vua chúa và đổi chế độ phong kiến thành ra chế độ quân chủ chuyên chế. Ông tập trung tất cả các quyền hành, thống nhất chữ viết, tiền tệ, dụng cụ đo lường, luật pháp và sách vở vào tay ông, gọi là hoàng đế.
Những phần lãnh thổ chiếm được, ông chia làm quận huyện và bổ nhiệm quan chức triều đình cai trị, và trực thuộc bộ máy cầm quyền thống nhất Trung Quốc. Song hành với chế độ có nguồn gốc du mục dùng võ lực của Trung Quốc, thì ở phương Nam chế độ quân chủ dùng văn trị do Tộc Việt lãnh đạo, được hưởng thái bình an lạc trong 2500 năm.
Khoảng thời gian này, Lịch Sử Tộc Việt chỉ có 3 lần chiến tranh xảy ra
(1) Ân Cao Tôn đem quân xâm lấn và toàn dân Việt vùng lên đánh đuổi
(2) Việt Vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Vương Phù Sai trả hận bị vây hãm ở núi Cối Kê
(3) Chiến tranh giữa hai sắc tộc Trăm Việt, là Việt Vương Triệu Đà chiếm đất An Dương Vương Thục Phán ở thành Cổ Loa. Bởi thế mà có an dân thịnh nước và Chính Thuyết Tiên Rồng ra đời với những truyền tích trong Lịch Sử Dân Việt.
4. Tiến Trình Xã Hội
Con người đã phải trải qua bao giai đoạn lang thang trên cánh đồng hoang vắng, sống cô đơn bao ngàn năm săn hái để biết kết xã trong thời kỳ hậu nông nghiệp. Từ xã hội đơn sơ dăm ba người ngày trước, tới khi thành lập làng xã có vạn triệu dân là một tiến trình dài phát triển hai hệ thống, xã hội công quyền và xã hội dân sự.
Xã được hiểu theo nghĩa rộng là tổ chức thân thiện của loài người, và theo nghĩa hẹp là một nhóm người có chung quyền lợi, đặc tính hợp lại thành tổ chức được gọi là hội. Cơ cấu xã hội tăng dần, từ tổ chức bộ bộ lạc phát triển thành làng xã nông nghiệp.
Khi con người tiến sang thời kỳ tiền kỹ nghệ, các miền hay tỉnh có khả năng tự trị trở thành tiểu bang trong liên bang Hoa Kỳ hay Úc Ðại Lợi, hoăc tỉnh bang Gia Nã Ðại, mục đích hợp tác và tranh đấu cho quyền lợi, cho tự do, cho tự chủ của tiểu bang/ tỉnh bang.
Con người có những tổ chức sinh hoạt riêng tư, tuy nằm trong hệ thống công quyền, nhưng hoạt động riêng tư không bị chính quyền chi phối – phép vua thua lệ làng, được gọi là xã hội dân sự. Xã hội dân sự cũng được gọi là xã hội tư, khi một nhóm người không liên quan đến chính quyền thành lập hội đoàn. Sự hoạt động của hội không nguy hại chính quyền, không tranh giành quyền bính, mà còn phục vụ cho cộng đồng xã hội.
Xã hội khởi thủy chỉ có một cơ cấu tổ chức bao gồm chính trị, văn hóa, quân sự, tôn giáo, y tế, giáo dục… nhưng qua thời gian dân số gia tăng, các lãnh vực sinh hoạt được chuyên môn hóa, số người làm nghề nghiệp mới, tạo ra tổ chức xã hội dân sự (civic society).
Hợp Tác Xã (cooperative) là xã hội hợp tác hoạt động kinh tế và kinh doanh, không tìm kiếm lợi nhuận, và chỉ hợp tác để tiêu thụ. Những người tiêu thụ đoàn kết để giảm chi phí, tránh các giai đoạn trung gian, phân phối hạ giá mua hàng hóa, bằng cách làm chủ cơ sở, hàng hóa do họ chung nhau tạo dựng và mua sắm.
– Năm 1761 một nhóm thợ dệt Anh quốc hợp nhau để mua chỉ dệt và bột mì. Họ lập bộ phận mua hàng hóa và phân phối đến các thành viên.
– Năm 1795, 1400 người ở Hull, Anh Quốc lập hợp tác xã nhà máy xay bột để đáp ứng nhu cầu của thành viên. Sự lợi ích của hợp tác xã tăng nhanh, vào thập niên thứ ba thế kỷ 19, ở Anh quốc, đặc biệt ở những vùng kỹ nghệ, hợp tác xã tiêu thụ ra đời, về sau phát sinh ra hợp tác xã sản xuất và hợp tác xã dịch vụ.
– Hình thức hợp tác xã được cải tiến vào năm 1844, khi 28 thợ dệt nghèo ở Rochdale, Anh quốc thành lập hội tương trợ, được gọi là Hội Công Bằng Tiền Phong Rochdale (Rochdale Society of Equitable Pioneers). Với sáng kiến này, hội lập tiệm tạp hóa và buốn bán thành công thịnh vượng.
– Năm 1863 Anh Quốc có hơn 400 hợp tác xã theo kiểu mẫu của Hội Rochdale. Kể từ đó phong trào hợp tác xã lớn mạnh, trở thành kiểu mẫu cho thế giới. Đến giữa thế kỷ 20 có 2400 hợp tác xã các loại, và hợp tác xã bán sỉ là cơ quan phân phối lớn nhất ở Anh quốc.
– Thụy Điển phong trào hợp tác xã cũng thành công trong lãnh vực tiêu thụ, phân phối sản phẩm kỹ nghệ và là động lực của kinh tế nước nầy. Hợp tác xã ở Thụy Điển còn được gọi là “con đường trung dung” để phân biệt giữa xí nghiệp do cá nhân làm chủ và xí nghiệp của chính phủ điều hành.
– Phong trào hợp tác xã tiêu thụ được thành lập tại Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 20. Kể từ năm 1920 hợp tác xã được áp dụng vào các lãnh vực như tiệm tạp hóa, bánh mì, tiệm ăn, nhà máy điện, bảo hiểm, ngân hàng… cạnh tranh thành công với các cơ sở kinh doanh tư nhân. Hợp tác xã nông dân là mạnh nhất ở Hoa Kỳ.
– Ngoài các hợp tác xã tiêu thụ, sản xuất chúng ta thấy hiện nay có các hợp tác tín dụng, hợp tác bảo hiểm, hợp tác y tế, mai táng là những hợp tác xã lớn tại Hoa Kỳ.
– Liên Minh Hợp Tác Quốc Tế (International Cooperative Alliance, ICA) được thành lập năm 1895, đến thập niên 1980 tổ chức có 355 triệu thành viên, có tiếng nói ở Liên Hiệp Quốc.
– Người Trung Hoa đi lập nghiệp ở hải ngoại, đã thành lập các bang, như bang Triều Châu, bang Phúc Kiến… Các bang này là “xã hội dân sự” hoạt động độc lập đối với chính quyền cũng như với dân bản xứ. Các xã hội sắc tộc chú trọng đến buôn bán, thành công, và có truyền thống thương mãi cao hơn dân bản xứ.
Từ đó họ vươn lên giữ quyền kiểm soát kinh tế, tài chánh của một số tiểu bang ở Hoa Kỳ hay Úc Đại Lợi, hoặc tỉnh bang Gia Nã Đại là nơi nhiều người Hoa cư ngụ.
Còn ngành làm móng của người Việt ở hải ngoại thì sao, bao giờ có hợp tác xã? Câu hỏi còn chờ một tiểu luận trả lời!
V. Kết Luận
Tóm lại, đợt sóng nông nghiệp bắt đầu chìm xuống ở cuối thế kỷ 17 tại Châu Âu, khoảng năm 1750 thời đại công nghiệp bắt đầu phát triển ở Anh Quốc, và tạo ra đợt sóng văn minh thứ hai tràn ngập cả nước, cả lục địa, cả toàn cầu với nhiều tốc độ nhanh chậm khác nhau.
Riêng tại Hoa Kỳ phát triển thời đại công nghiệp (Industrial Age) và chủ nghĩa Tư Bản (Capitalism) từ sau Cuộc Nội Chiến (American Civil War) vào năm 1865 do Đảng Cộng Hòa chủ trương, sau khi chiến thắng thời đại nông nghiệp (Agricultural Age) và chủ nghĩa Nô Lệ (Slavery) của Đảng Dân Chủ, và tới nay đã trải qua thời gian 160 năm hùng cường thịnh vượng thì lại đang trở thành chế độ lạc hậu, lỗi thời, lỗi nhịp nếu không tiến kịp theo thời đại tín nghiệp.
Và câu hỏi đặt ra cho chúng ta là tại sao/ hay nguyên nhân gì đã làm cho Việt Nam không thể phát triển thời đại công nghiệp ngay từ thời Nhà Nguyễn Gia Long cho tới hôm nay?
Phạm Văn Bản
----------
Ý kiến đóng góp và bài vở xin gởi đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. - Cám ơn |