BẢY MƯƠI NĂM TÌM LẠI.
"CHIẾN DỊCH VƯỢT ĐẾN TỰ DO" - 1954
("OPERATION PASSAGE TO FREEDOM" - 1954)
Tác Giả : Đỗ Như Quyên Ngày đăng :2024-07-30
"Bài viết này để kính tưởng niệm hàng triệu đồng bào đã chết vì cộng sản. Cũng để ghi nhớ và tỏ lòng biết ơn với những người đã mang tâm sức của mình, giúp đỡ người dân Việt Nam vượt thoát cộng sản trong cuộc di cư 1954 - 1955".
BĐQ Đỗ Như Quyên.
Nguyên Nhân Có Cuộc Di Cư 1954.
Suốt 60 năm qua, hầu như ai trong chúng ta cũng tin rằng: .. "Sở dĩ có cuộc di cư năm 1954 là vì đất nước bị chia hai bởi Hiệp Định Đình Chiến Geneva, một cách gián tiếp hơn, vì Pháp 'thua' cộng sản Việt Minh tại chiến trường Điện Biên Phủ, sau đó họ bỏ cuộc, bỏ luôn sự thống trị bằng cái ách thực dân gần một trăm năm ở một nơi luôn chống lại họ". Đại khái là như vậy, chúng ta ai cũng nghĩ như thế.
Thật ra điều đó chỉ đúng một phần nhỏ. Phần lớn sự thật là do chính phủ Mỹ, họ muốn Pháp phải tránh ra. Họ cần có một vùng địa lý như Việt Nam chia làm hai phần họ mới có thể đặt chân đến một nửa của vùng lãnh thổ này. Họ đã từng muốn và được làm thêm nhiều chuyện tiếp sau đó, tới năm 1975 thì họ chẳng muốn nữa.
Không phải đợi đến ngày 21/ 7/ 1954 vấn đề di chuyển người di cư mới được nói tới trong bản hiệp định, phía Mỹ đã tính tới chuyện này từ lâu, trước khi có trận Điện Biên Phủ, trước lúc có hội họp tại Geneva Thụy Sĩ thì Mỹ đã sắp đặt nước cờ cuả họ rồi.
Trong một cuộc họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia ở thủ đô Liên Bang Mỹ cuối tháng 1/ 1954, có sự hiện diện cuả Tổng Thống Dwight D. Eisenhower; Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân Đô Đốc Arthur W. Radford, vấn đề di tản người miền Bắc vào miền Nam - Việt Nam đã được vị đô đốc nêu trên nói tới. Đô Đốc Arthur W. Radford là người mà từ thời còn là Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương trước đó vài năm, đã từng bàn chuyện di tản người Việt miền Bắc vô Nam với Đại Tướng Jean J. M. G. de Lattre de Tassigny, Tư Lịnh Lực Lượng Viễn Chinh kiêm Cao Ủy Toàn Quyền cuả "Tây" ở vùng Đông Dương thuộc Pháp (sẽ được ghi tắt là vùng Đông Pháp, nơi có ba nước Cam Bốt; Lào; Việt Nam bị Pháp chiếm, không phải toàn Đông Dương nơi có tới 6 nước (Miến Điện; Thái Lan; Mã Lai Á) như nhiều người Mỹ cũng như Việt đã ghi lầm, xin đọc thêm nơi bài Đông Dương và Đông Pháp cuả Đỗ Tấn Thọ trên trang nhà BĐQ).
Sau khi nghe ông đô đốc Mỹ nói về chuyện di tản người Việt từ Bắc vô Nam, ông tướng Pháp trả lời tóm tắt rằng:… "cho dù trước khi một hoạt động (di tản) nào được hoàn tất, đoàn người cuối cùng chờ di tản chắc chắn sẽ bị (Việt Minh) tàn sát"... Tuy vậy, sau cuộc gặp gỡ cuả hai vị tướng nêu trên, phía Mỹ vẫn phác họa một kế hoạch di tản người ờ miền Bắc Việt Nam (tới đầu năm 1952 mới soạn xong).
Trong phần phân tích và ước tính chung cuả bản kế hoạch cho thấy: cuộc di tản sẽ là một chiến dịch quy mô về Thuỷ - Bộ để chuyển vận hơn 80.000 lính Pháp; 40.000 lính Quân Đội Quốc Gia và 10.000 người dân. Ngày 7/ 5/ 1954, khi nghe tin Điện Biên Phủ thất thủ nhưng quân đội Pháp vẫn bảo vệ vững vàng vùng châu thổ sông Hồng, kế hoạch nói trên lại trở thành cuộc thảo luận sôi nổi ngay tại buổi họp giữa bộ Tham Mưu Liên Quân và Bộ Quốc Phòng (họp trong ngày 7/ 5).
Trong tháng 2/ 1954, Quốc Trưởng Bảo Đại tiếp một đại diện cao cấp cuả Tổng Thống Dwight D. Eisenhower tại Pháp. Trong buổi tìếp kiến này, quốc trưởng Quốc Gia Việt Nam đã nói như sau: "nếu chuyển được 4 triệu người dân đến các tỉnh miền Trung và Cao Nguyên (Nam) Trung Phần, lực lượng quân sự sẽ được nhẹ tay hơn để đối phó với cộng sản ở miền Bắc" ... Quốc Trưởng Bảo Đại sau đó còn bàn chuyện này với Đại Sứ Mỹ Donald Heath, nhưng phiá Mỹ vẫn im lặng. Ngày 28/ 6/ 1954, sau hai ngày về đến Sài Gòn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm tiếp ông Robert McClintock, Xử Lý Thường Vụ Toà Đại Sứ Mỹ, (ông Donald Heath đang về Mỹ), vị thủ tướng Việt Nam cũng đem chuyện này ra thảo luận và còn tin rằng: ... "việc di tản người là cần thiết, dân chúng sẽ thoát được các hiểm họa từ cộng sản"..., nhưng phiá Mỹ vẫn giữ im lặng. Ngày 28/ 7/ 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam chính thức yêu cầu Mỹ giúp cho 2.000 căn lều vải dành cho người tỵ nạn, Mỹ vẫn làm thinh (tới ngày 5/ 8/ 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm chính thức nhân danh cá nhân gởi thơ yêu cầu Mỹ giúp chuyển vận người di cư, lúc này Mỹ mới hành động).
Cuối tháng 6/ 1954, các hồ sơ về vấn đề di tản người tỵ nạn cộng sản ở Việt Nam được thẩm định lại bởi Cục Tình Báo Trung Ương - CIA. Nơi này "xét" xong còn thêm vô: .."chưa tính phương tiện đưa người ra đi, chỉ riêng phần quân cụ cuả Pháp và Việt Nam ở Hà Nội phải cần tới 600 chuyến bay mới chở hết. Nhân viên quân sự Việt - Pháp phải vào Nam có khoảng 83.000 đến 150.000 người với 65 tiểu đoàn dã chiến, 19 tiểu đoàn khinh chiến. Có thể cộng sản Việt Minh sẽ thả khoảng 9.600 tù binh". Bên hải quân cũng phỏng đoán sẽ chuyển hơn 110.000 thường dân, 83.000 quân nhân, 10.000 xe cơ giới các loại và khoảng 382 súng pháo binh lớn, nhỏ.
Nhưng chúng tôi sẽ không ghi thêm nữa, vì đây là một bản văn tìm lại các dữ kiện lịch sử trong biến cố "Di Cư 1954 - 1955". Sâu xa hơn, chúng tôi muốn tưỏng nhớ và ghi nhận công ơn cuả tất cả những ân nhân, không phân biệt quốc tịch đã từng có lòng nhân, mở rộng vòng tay giúp nhiều đồng bào Việt Nam chúng tôi thoát khỏi sự khống chế toàn diện một dân tộc bởi cộng sản. Nhờ đó, những người vượt thoát đã cùng đồng bào miền Nam tiếp tục chiến đấu với cộng sản thêm 20 năm, kịp tạo nên một thế hệ kế thừa hiểu rõ hơn về cộng sản kể từ sau năm 1975. Qua hai biến cố bi thảm nêu trên trong lịch sử cận đại cuả giống nòi Việt Nam, tổ quốc chúng tôi dù bị cộng sản cướp đoạt nhưng những thế hệ kế tục vẫn tin rằng cộng sản ở Việt Nam không thể vĩnh viễn tồn tại, cũng như các đế quốc Hy Lạp; La Mã; Hán; Tống; Nguyên; Minh; Thanh v.v đã từng tan rã. Vì vậy chúng tôi vẫn còn chiến đấu và trận Điện Biên Phủ đã nói lên điều đó, tuy máu xương cuả những chiến sĩ nằm xuống nơi đây đã từng bị cộng sản lợi dụng như một vũ khí chính trị để chia phần với kẻ gian vẫn còn đang giấu mặt.
BĐQ Đỗ Như Quyên (Charlie Brown Phương).
Hawaii ngày 1 tháng 1 năm 2024.
======
"Năm Đánh Một Không Chột Cũng Què".
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau 54 ngày đêm bị bao vây, bị đủ thứ đạn pháo vùi dập, rồi liên tiếp những lớp lớp sóng người bị cấp trên hối thúc tràn tới, cuối cùng căn cứ Điện Biên Phủ cuả quân đội Pháp phải chịu thất thủ bởi xác người Việt Nam phủ kín khắp nơi. Lính Pháp tuy chịu thua nhưng họ chỉ không bắn nữa, và không treo cờ trắng đầu hàng. Những kẻ chỉ huy trực tiếp trận đánh này không phải là cán bộ cộng sản gốc Việt, mà là các tướng cuả Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa như
(1) Lã Quý Ba: Đặc Sứ cuả Mao Trạch Đông cạnh đảng CSVN, Trưởng Đoàn Cố Vấn "Chí Nguyện Quân" kiêm Tư Lệnh Mặt Trận Điện Biên Phủ.
(2) Vi Quốc Thanh: Tham Mưu Trưởng Mặt Trận kiêm Cố Vấn Chỉ Huy Tổng Quát về các vấn đề quân sự cho chiến trường;
(3) Trần Canh: Cố Vấn Trưởng về Chính Trị - Chiến Lược và Chiến Thuật;
(4) Mai Gia Sinh: Cố Vấn Trưởng về Liên Lạc và Điều Động (truyền tin và vận tải);
(5) Mã Tây Phu: Cố Vân Trưởng về Tiếp Liệu;
(6) Đặng Nhất Phấn: Cố Vấn Trưởng về Pháo Binh v.v...
Ngoài ra, còn có khoảng 6.000 "Chí Nguyện Quân" khác cuả CHNDTH (sẽ ghi tắt là Cộng Tàu) trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào trận đánh này. Họ giữ các vai trò trọng yếu về chính trị, quân sự ở cấp tiểu đoàn, trung đoàn và sư đoàn cuả Cộng Sản Việt Nam (ghi tắt là Cộng Việt) trong lãnh vực chuyên môn như pháo binh, truyền tin, quân y hoặc là tài xế thuộc các đoàn xe vận tải từ biên giới chở đạn dược, thực phẩm tới thẳng chiến trường Điện Biên Phủ. Nói tóm lại, cái gọi là "chiến thắng" Điện Biên Phủ thật ra chỉ là lối đánh giặc "lấy thịt đè người". Cán bộ Cộng Tàu và Cộng Việt dùng xác người Việt Nam đè bẹp người Pháp một cách không thương xót. Còn các ông như HCM; Trường Chinh; Phạm Văn Đồng; Võ Nguyên Giáp; Hoàng Văn Thái; Lê Trọng Tấn v.v là những con cờ bung xung nhận lệnh và chạy vòng ngoài, họ chỉ có bổn phận đôn đốc tinh thần binh sĩ ở các đơn vị người Việt mà thôi !
Nước Việt Chia Đôi - Tây Đi Về Pháp.
Một ngày sau biến cố Điện Biên Phủ, một hội nghị quốc tế về vùng Đông Dương thuộc Pháp được tổ chức ở thành phố Geneva Thụy Sĩ. Phái đoàn đại diện các nước đến tham dự có:
(1) Quốc Gia Việt Nam, do Tổng Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Quốc Định dẫn đầu (sau ông Nguyễn Trung Vinh thế, tới ngày 7/ 7/ 1954 ông Trần Văn Đỗ thay làm trưởng đoàn).
(2) Liên Bang Mỹ: Thứ Trưởng Ngoại Giao Walter Bedell Smith.
(3) Cộng Hoà Pháp: Bộ Trưởng Ngoại Giao Georges Bidault.
(4) Vương Quốc Anh: Bộ Trưởng Ngoại Giao Anthony Eden.
(5) Vương Quốc Lào: Hoàng Thân Phumi Sananikone.
(6) Vương Quốc Cam Bốt: ông Than Tep.
(7) Cộng Nga: Ngoại Trưởng Vvachcheslav M. Molotov.
(8) Cộng Tàu: Thủ Tướng Chu Ân Lai.
(9) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Việt): Trưởng Ban Đối Ngoại Trung Ương Đảng Phạm Văn Đồng cầm đầu.
Hai đại diện Anh và Nga làm đồng chủ tịch hội nghị (Hội Nghị Quốc Tế về vấn đề Đại Hàn và vùng Đông Pháp thật ra đã mở màn ở Geneva, Thụy Sĩ từ ngày 26. 4. 1954 với đại diện năm nước tham dự: Mỹ; Pháp; Anh; Nga; Trung Cộng, chương trình nghị sự là một ngày luận về Đại Hàn một ngày bàn về vùng Đông Pháp. Nhưng vì vấn đề Đại Hàn dù sao cũng có "lệnh ngưng bắn" (cho tới hôm nay vẫn còn) đã tạm giải quyết, người ta mới đem vấn đề Đông Pháp ra thảo luận thường xuyên hơn và rất căng thẳng. Lúc đó hội nghị mới quyết định mời thêm đại diện cuả cộng sản và quốc gia Việt Nam, đại diện Lào và Cam Bốt cùng tham dự chính thức. Hội Nghị Quốc Tế về Đông Pháp bắt đầu từ ngày 8/ 5 nhưng tới ngày 20. 6. 1954 thì bị đình trệ. Ngày 10. 7 mới họp lại và kết thúc lúc 1 giờ sáng ngày 21. 7. 1954).
Sau hơn hai tháng họp hành, vài lần tưởng như bế tắc vì sự đòi hỏi, lấn lướt quá đáng cuả Cộng Nga; Cộng Việt; Cộng Tàu, cuối cùng thì bản "Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự" ở Đông Pháp (đọc tắt Hiệp Định Đình Chiến) cũng vẫn bị ký dù có sự phản đối bởi đại diện Quốc Gia Việt Nam và Liên Bang Mỹ. Tổng Trưỏng Ngoại Giao Trần Văn Đỗ tuyên bố chính phủ ông không đồng ý trước những áp đặt cuả các cường quốc trong hội nghị. Và người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận chuyện đất nước bị cắt chia.
Trong bản "Hiệp Định Đình Chiến", Geneva 1954 có những quy định như sau về Việt Nam, chúng tôi xin ghi lại vắn tắt:
(A) Việt Nam bị chia làm hai phần lãnh thổ tại vĩ tuyến 17. Hướng Nam thuộc Quốc Gia Việt Nam, phiá Bắc vỹ tuyến là cuả Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (Cộng Việt).
Sông Bến Hải (nơi có vị trí gần nhất từ vỹ độ tuyến 17) ở phía Bắc tỉnh Quảng Trị được chọn làm ranh giới giữa hai miền, kể từ ngày 14. 8. 1954 các hoạt động quân sự dọc theo con sông này đều bị cấm, tính từ cửa sông lên tới làng B'ohosu ở biên giới Việt - Lào. Mỗi bên tính từ bờ sông mở rộng thêm 5 cây số (km) là khu vực cấm các hoạt động quân sự, "Demilitarised Zone" (DMZ, Vùng Phi Quân Sự). Quốc Lộ 1 Nam - Bắc đến ngay giữa cầu Hiền Lương trên sông Bến Hải sẽ được sơn một vạch trắng nằm ngang cầu (1*).
(B) Thời điểm ngưng bắn toàn miền Bắc là 8 giờ sáng ngày 27/ 7, miền Trung 8 giờ sáng 1/ 8 và miền Nam lúc 8 giờ sáng ngày 11/ 8/ 1954.
(C) Dân chúng có 300 ngày được "tự do di chuyển" (free movement), được quyền chọn lựa nơi cư trú mà không bị cấm cản, hạn chót là ngày 18/ 5/ 1955.
(D) Những đơn vị quân sự, hành chánh cuả các bên có từ 80 đến 300 ngày phải triệt thoái và tập trung ở từng địa điểm đã được thoả thuận.
(Đ) Riêng khu vực Hà Nội và vùng phụ cận chỉ có 80 ngày được "tự do di chuyển", thời hạn chót ở Hà Nội là ngày 9/ 10/ 1954; Hải Dương 100 ngày; Đồng Tháp Mười 100 ngày; Cà Mau 200 ngày; Hải Phòng và miền Trung 300 ngày.
(E) Một Ủy Ban Quốc Tế về Giám Sát và Kiểm Soát (International Committee for Supervision and Control - ICSC) đình chỉ chiến sự ở Đông Pháp được thành lập với 3 Ủy Viên là Ấn Độ; Ba Lan và Gia Nã Đại (tới năm 1973, Ấn Độ tuyên bố bản "Hiệp Định Đình Chiến", Geneva 1954 chỉ là mớ giấy lộn nên họ rút ra khỏi ủy ban ICSC, Nam Dương được đưa vô thay thế).
Ngày 5/ 8/ 1954, phiá Pháp bắt đầu tổ chức đưa người vào Nam bằng đường hàng không ở Hà Nội, Hải Dương, Nam Định, bằng đường biển tại Hài Phòng, Uông Bí v.v. Số người được đưa đi vào lúc này phần đông là những nhân viên hành chánh người Việt, người Pháp và thân nhân cuả họ, hoặc những gia đình giàu có ở Hà Nội (tới ngày 20/ 9, phiá Pháp đã huy động hầu hết máy bay vận tải quân sự mà họ có ở Đông Pháp, đồng thời cũng trưng dụng các máy bay hàng không dân sự vào việc chuyển người. Tuy nhiên, dù cố hết sức mình, phiá Pháp vẫn không đủ khả năng đáp ứng vai trò chuyển vận vì số người muốn vào miền Nam mỗi lúc thêm đông dần, vì thế Pháp phải nhờ phiá Mỹ giúp sức).
Trong khi hội nghị Geneva đang diễn ra, ngày 18/ 6/ 1954 Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định ông Ngô Đình Diệm làm thủ tướng, thế ông Nguyễn Phúc Bửu Lộc (Sắc Lệnh 038/ SL/ QT). Ông Ngô Đình Diệm về đến Sài Gòn ngày 26/ 6, chỉ năm ngày sau ông ra Hà Nội vì muốn đích thân quan sát và tìm hiểu tình hình thực tế ở miền Bắc, nhất là vấn đề người di cư. Ông trở về Sài Gòn ngày 3/ 7/ để tìm người cho nội các mới rồi tuyên bố thành lập chính phủ vào ngày 5/ 7/ 1954.
Đúng lúc này, chính phủ mới cuả Thủ Tướng Ngô Đình Diệm phải đối diện với những bất lợi trước mắt như vấn đề giáo phái, sự lộng hành cuả lực lượng Bình Xuyên, Pháp cố tình tạo ra những mầm mống chống đối, vụ tướng Nguyễn Văn Hinh bất tuân lệnh chính phủ, hàng trăm ngàn người ở miền Bắc đang chờ đợi được di cư vào miền Nam v.v.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc mới về Sài Gòn, 6/1954
Ngày 5/ 8/ 1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm nhân danh cá nhân ông, đã gởi đến Tổng Thống Dwight D. Eisenhower một bức thư qua trung gian Đại Sứ Donald R. Heath và Trung Tướng John "Iron Mike" O'Daniel, Tư Lệnh "Đoàn Cố Vấn Yểm Trợ Quân Sự - Đông Dương" (Military Assistance Advisory Group - Indochina, MAAG - I (2*), sẽ ghi tắt là MAAG). Trong thư ông Ngô Đình Diệm khẩn thiết yêu cầu chính phủ Mỹ và quốc tế giúp Việt Nam phương tiện vận chuyển người di cư, cũng như viện trợ nhân đạo cho những người mới vào Nam. Bức thư này cuả Thủ Tướng Ngô Đình Diệm được tổng thống và chính phủ Mỹ đáp ứng nhanh chóng và rất tận tình.
Ngày 9/ 8/ 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam cho thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư - Tỵ Nạn (Nghị Định số NĐ/ 111/ TTP/ - VP) với ba nha đại diện ở ba miền, ông Nguyễn Văn Thoại làm Tổng Ủy Trưởng, ông Đinh Quang Chiêu làm Phụ Tá Tổng Ủy. Cũng trong lúc này, ngoài xã hội có những đại diện tôn giáo, hiệp hội tư nhân (VN), thanh niên v.v cũng vận động cùng hợp tác và lập ra Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư do Giám Mục Phạm Ngọc Chi làm Chủ Tịch.
CHIẾN DỊCH “VƯỢT ĐẾN TỰ DO” (OPERATION “PASSAGE TO FREEDOM”)

Ngày 7/ 8/ 1954, Đô Đốc Robert B. Carney, Tham Mưu Trưởng Hành Quân/ Hải Quân Liên Bang Mỹ (Chief of Naval Operation of the United States Navy) chỉ thị đến Tổng Tư Lệnh - Thái Bình Dương kiêm Tư Lệnh Hạm Đội Thái Bình Dương (Commander in Chief of Pacific and Commander Pacific Fleets) Đô Đốc Felix B. Stump's hãy chuẩn bị lực lượng cho một hoạt động hải vận quy mô trên biển để chuyển người và cơ giới từ miền Bắc vào miền Nam nước Việt Nam.
Ngày 12/ 8/ 1954, Phó Đô Đốc Alfred M. Pride, Tư Lệnh Hạm Đội 7 cho phổ biến Lệnh Hành Quân cuả "Chiến Dịch Vượt Đến Tự Do" (Operation Passage to Freedom) cùng với sự thành lập Lực Lượng Hải Quân Đặc Nhiệm 90 do Đề Đốc Lorenzo S. Sabin làm Tư Lệnh (Naval Task Forces 90, sẽ ghi tắt là Lực Lượng TF 90). Ban Tham Mưu cuả Lực Lượng TF 90 ban đầu gồm có: Tham Mưu Trưởng Toàn Chiến Dịch kiêm Chỉ Huy Đơn Vị Chiến Thuật Kiểm Soát Không Phận là Đại Tá Hải Quân Anthony Trusso; Tham Mưu Trưởng Lực Lượng TF 90: Đại Tá Hải Quân J. W. Higgins; Chỉ Huy Trưởng Tổng Quát các đơn vị tàu LCU: Trung Tá Hải Quân C. V. Thomas; Sĩ quan quân y chịu trách nhiệm tổng quát về y tế trong chiến dịch là Trung Tá Hải Quân James Grindell, kiêm Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quân Y - Bờ; Đại diện cuả MAAG về liên lạc và phối hợp hành động: Đại Tá Rolland Hamelin; Đại diện cuả MAAG liên lạc về vận tải thuỷ bộ - hàng không: Trung Tá Kaipo F. Kaula; Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Bộ - Kiến Tạo (Amphibious Construction Battalion 1, ACB - 1); Đội Tháo Huỷ Chất Nổ Dưới Mặt Nước (Underwater Demolition Team- UDT); Soái hạm cuả Ban Tham Mưu Chiến Dịch là chiếc USS Estes, Hạm Trưởng: Đại Úy J. W. Waterhouse v.v. Ngoài ra, Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Mỹ ở Phi Luật Tân, Phó Đô Đốc Hugh H. Goodwin chịu trách nhiệm về yểm trợ và tiếp liệu.
Ngày 10/ 8/ 1954, Đề Đốc Lorenzo S. Sabin đến Hải Phòng bằng máy bay để bàn về sự phối hợp giữa các bên với đại diện Pháp là Đô Đốc Jean M. Querville, Tư Lịnh Hải Quân vùng Đông Pháp, trong đó yêu cầu Pháp dành cho hải quân Mỹ vài điểm quân cảng và nhân viên hướng dẫn thuỷ lộ (cũng trong ngày 10/ 8, chiếc tàu thứ nhất cuả hải quân Mỹ xuất hiện ngoài khơi Hải Phòng là chiếc hải vận hạm USS Menard (tới từ hướng Hương Cảng). Lúc biết tin khi còn đang họp, vị đề đốc Mỹ ra lệnh chiếc USS Menard phải chạy tìm chỗ "nấp" tạm đâu đó ngoài Vịnh Hạ Long đến khi có lệnh mới).
"Chiến Dịch Vượt Đến Tự Do" bắt đầu ngày 18/ 8/ 1954 và kết thúc ngày 20/ 5/ 1955. Chiến dịch có sự tham dự trực tiếp hay gián tiếp bởi hơn 15.000 quân nhân các cấp của hải quân- không quân và bộ binh, được coi là cuộc vận chuyển dân sự trên mặt biển lớn nhất trong lịch sử hải quân cuả Liên Bang Mỹ. Chiến dịch này được tổ chức quy mô và chu đáo, được tính toán, sắp đặt, chuẩn bị v.v thật hoàn hảo và được theo dõi, giám sát bởi bộ quốc phòng, chính phủ cũng như công chúng Mỹ. Trên tất cả, sự hoạt động hữu hiệu cuả Lực Lượng TF 90 có được là nhờ sự yểm trợ tận lực cuả bốn cơ cấu quan trọng trong quân đội Mỹ:
(1) Công Tác Kỹ Thuật Đặc Biệt và Kinh Tế (Special Technical and Economic Mission - STEM);
(2) Quản Trị các Chiến Dịch Ngoài Lãnh Thổ (Foreign Operations Administration - FOM);
(3) Cục Vận Tải Quân Sự Đường Biển (Military Sea Transportation Services - MSTS);
(4) Công Tác Hải Ngoại - Liên Bang (United States Overseas Mission- USOM).
Để chuẩn bị cho chiến dịch, Đề Đốc Lorenzo S. Sabin yêu cầu Hạm Đội Thái Bình Dương tăng cường cho ông thêm một tàu chỉ huy thuỷ bộ (loại AGC), 8 tàu vận tải tác chiến (APA), 4 tàu vận tải xung kích (AKA), 4 tàu đổ bộ hạng trung (LSD), 4 tàu vận tải cao tốc (APD), 12 tàu đổ bộ chở quân cụ (LCU). Vào lúc này, tàu thuyền vận tải, đổ bộ các loại cũng đã có trong Lực Lượng TF 90. Lớn nhất có loại LST (Landing Ship, Tank), nặng trung bình 4.000 tấn, chở xuyên đại dương các loại xe cơ giới, thiết giáp, pháo binh v.v hoặc có thể chở hơn 2.000 người; LCI (Landing Ship, Infantry), dài 157 bộ (feet), chở được 200 người trang bị đầy đủ; LCM (Landing Craft, Medium), dài 50 bộ, chở được 100 người hay một xe tăng, LCPR (Landing Craft, Personel, Ramp), dài 36 bộ và chở được 40 người. Tổng số tàu loại lớn mà Lực Lượng TF 90 có trong tay là 74 chiếc. Sau đó được Cục Vận Tải Quân Sự Đường Biển (MSTS) tăng cường thêm 36 chiếc.
Bộ Tư Lệnh cuả chiến dịch đặt trên Soái Hạm USS Estes, sẽ thả neo trong Vịnh Hạ Long. "Bộ Chỉ Huy - Tập Trung và Phân Phối" quân nhu, thực phẩm, dược phẩm, nhiên liệu, thư tín, trạm truyền tin liên lạc v.v thì đặt trong Vịnh Đà Nẵng cùng với bản doanh cuả Lực Lượng Yểm Trợ Tiếp Liệu - Tây Thái Bình Dương (Logictics Suport Force - Western Pacific). Đề Đốc Lorenzo S. Sabin còn ra lệnh chở từ căn cứ hải quân cuả Mỹ ở Yokosuka, Nhật Bản đến Vịnh Hạ Long 85.000 áo phao cấp cứu cá nhân, 85.000 chiếc chiếu, 700.000 đôi đũa, 40.000 chiếc xô đựng nước loại 10 lít, 15.000 tấn gạo (trong tổng số 150.000 tấn sau này cho toàn chiến dịch), 12.000 tấn cá khô, 600 kg muối, chở khẩn cấp từ Okinawa (đảo Xung Thằng) tới Vịnh Hạ Long 600 và Sài Gòn 200 cái lều vải dã chiến quân đội (ODD Tent là tên chính thức, nhưng được biết phổ biến hơn với tên "Army Sixty - Man Tents", mỗi lều đủ chỗ cho 120 người).
Cùng với sự giúp đỡ cuả hải quân Mỹ, quân đội Pháp, chính phủ Quốc Gia Việt Nam cũng ráo riết chuẩn bị theo khả năng của mình. Ngoài Phủ Tổng Ủy Di Cư - Tỵ Nạn, Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư (tư nhân) v.v thì ở Hải Phòng "Ủy Ban Di Tản Người Việt Nam Tỵ Nạn" (Vietnamese Refugee Evacuation Committee) cũng được thành lập do ông thị trưởng Mai Văn Hàm làm Chủ Tịch, nhà báo Nguyễn Luật làm Tổng Đại Diện cho toàn khu vực tiếp cư. Các Đội Y Tế Công Cộng cũng lần lượt lập ra, chuẩn bị phối hợp hoạt động ở các khu trại lều sẽ được dựng lên ngoại ô Hải Phòng, dọc theo Quốc Lộ 10 trên đường đi Hà Nội, trại xa nhất được dự trù cách Hải Phòng khoảng 20 km. Bộ Tư Lệnh MAAG cũng cử đến Hà Nội 5, Hải Phòng 7 sĩ quan liên lạc. Đại diện USOM ở Hải Phòng là ông Mike Adler. Việc điều hành các trại sẽ do khoảng 20 quân nhân Mỹ các cấp và những ban đại diện ngưòi Việt cùng phối hợp hoạt động. Ngoài ra việc tiếp đón, hướng dẫn người mới đến sẽ được giúp sức bởi các cá nhân làm việc thiện nguyện từ những hiệp hội tư ở Việt Nam và quốc tế, thanh niên - học sinh, các vị đạo sư, linh mục, ni cô, sơ v.v. Chính phủ quốc gia cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế giúp đỡ cho người di cư. Những nước nhận lời trợ giúp bước đầu có Anh; Tây Đức; Ba Lan; Ý Đại Lợi; Đại Hàn; Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan); Nhật Bản; Phi Luật Tân; Úc đại Lợi; Tân Tây Lan v.v. Các tổ chức nhân đạo quốc tế cùng những hiệp hội tư nhân nhận lời đến Việt Nam góp một bàn tay có UNICEF (United Nations Children's Fund - Quỹ Nhi Đồng Liên Hiệp Quốc); Hồng Thập Tự Quốc Tế; Catholic Relief Services (CRS); Church World Services (CWS); Thanh Thương Hội Quốc Tế; CARE; Mennonite Central Committee (MCC); International Rescue Committee (IRC) v.v.
Cam Go Nhưng Có Niềm Tin.
Ngày 18/ 8/ 1954, chiếc Soái Hạm Estes chở Ban Tham Mưu cuả Đề Đốc Lorenzo S. Sabin cùng 9 tàu (vận tải) theo sau hộ tống đến thả neo trong Vịnh Hạ Long, cách Hải Phòng khoảng 20 km về hướng chính Đông. Trước đó ngày 15/ 8 đã có năm tàu vận tải loại dương vận hạm đến trước thả neo trong vịnh, mục đích để thăm dò mức độ an ninh trong Vịnh Hạ Long và chờ lệnh.
Soái Hạm USS Estes trong Vịnh Hạ Long tháng 8/ 1954
Những tàu hiện diện trong vịnh gồm có chiếc USS Bay Field; USS Montague; USS Menard; USS Hickman County; USS Marine Adder; USS Cock; USS Bass; USS Begor; USS Balduck; USS Askari; USS Montrose; USS Diachenko; USS Skagit v.v. Sau bốn ngày tập trung thêm tàu thuyền và các nhu cầu cần thiết, ngày 22/ 8/ 1954 Lực Lượng TF 90 cho đổ bộ một trung đội công binh hải quân Ong Biển (Seabees (3*) tại bán đảo Đồ Sơn, vị trí ở Đông Nam thành phố Hải Phòng khoảng 21 km. Đơn vị này thuộc Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Bộ - Kiến Tạo (ACB 1). Họ lên bờ như một tiền trạm lập đầu cầu, có nhiệm vụ ráp nối một bến đậu cho mấy chiếc loại nhỏ như LCPR; LCM. Lúc những chú "Ong Biển" của hải quân Mỹ đang cặm cụi làm việc thì một ông Tây dắt hiến binh tới ngăn cản công việc. Ông yêu cầu họ dọn vật dụng và lên tàu rời bờ ngay, vì họ đang vi phạm vào bản Hiệp Định Đình Chiến! Sĩ quan liên lạc cuả Lực Lượng TF 90 ở Hải Phòng phân trần với phiá Pháp: họ "đến để chuẩn bị đón người di cư theo yêu cầu từ phiá Việt Nam". Các viên chức Pháp rất lịch sự giải thích rằng:"trong bản hiệp định Geneva có ghi: ...."Cấm sự gia tăng lực lượng quân sự hoặc nhân viên quân sự cuả các bên hay sự có mặt cuả một quân đội ngoại quốc".... Trong lúc này, thành phố Hải Phòng đã có gần 150.000 người sống tạm bợ khắp nơi để chờ được lên tàu. Khi biết tin sự cản trở quá nguyên tắc cuả người Pháp, MAAG ở Sài Gòn trực tiếp gởi khuyến cáo tới Lực Lượng TF 90 là nên điều động đơn vị nêu trên tạm thời di chuyển đến ngoại ô hướng Tây Nam Hải Phòng. Tại đây họ sẽ khởi sự thiết lập một khu trại lều cho 15.000 người tạm trú. Toán công binh Ong Biển sau đó nhận lệnh từ Soái Hạm là chất đồ lên xe, trực chỉ hướng Tây Nam Hải Phòng ( thật ra các viên chức Pháp không thể làm gì được người Mỹ tại một bờ biển cách Hải Phòng 21 cây số! Phiá công binh Mỹ dù lên bờ một đơn vị nhỏ nhưng cũng có vài chiếc Jeep, Dodge kéo "rờ moọc", máy điện, và cả đống các loại kiện hàng nằm tràn lan trên bãi biển. Tàu đổ bộ đã chạy mất tăm, mấy ông Tây làm gì được).
Sau khi đoàn xe cuả Ong Biển tới được phiá Nam Quốc Lộ 10, ngay ngoại ô Hải Phòng, phiá Pháp đã gởi lời phàn nàn đến đại diện MAAG ở Hải Phòng. Ngày hôm sau, 23/ 8, toán Ong Biển bắt đầu khai quang (những thuở ruộng đã được gặt) dành ra một bãi đậu xe, một khu vực chưá hàng và dựng lên được 6 căn lều dã chiến. Ngày hôm sau nữa, mới sáng sớm thì toán Ong Biển nhận được lệnh bỏ đồ để đó, tới bến cảng có tàu đón về đơn vị ở ngoài ...Vịnh Hạ Long. Về tới tàu họ mới biết có sự khiếu nại cuả người Pháp với Đại Diện ICSC tại Hải Phòng rằng: ..." có sự xuất hiện cuả một đội quân nước ngoài cùng quân cụ cuả họ tại vùng lãnh thổ bị cấm, dựa theo bản hiệp định" ... Thế rồi các bên đều giữ im lặng, ai cũng ..."biết rồi..khổ lắm .. nói mãi" với giấy và tờ. Đại diện ICSC thì khó giải thích với Pháp. Ủy Ban Di Tản Người Việt Nam Tỵ Nạn tiếng nói không đủ mạnh, và, lỡ có bên nào đó cố "bới bèo ra bọ" thì quả thật phiá Mỹ "hình như" đã vi phạm vào quy định cuả bản hiệp định. Đây là chuyện tế nhị trong phạm trù nhân đạo cấp quốc tế, cả thế giới đang nhìn vô nên bên nào cũng làm thinh và chờ một giải pháp khôn khéo.
Thấy được sự lúng túng, nhẫn nại chờ đợi cuả phiá Pháp và đại diện ICSC ở Hải Phòng, ngày 26/ 8/ 1954 Lực Lượng TF 90 lần thứ hai cho Ong Biển đem đồ nghề lên bán đảo Đồ Sơn. Lần này là một đơn vị công binh thủy bộ cấp đại đội cùng với ... xe ủi đất, xe xúc, xe ben, xe khoan giếng, xe vận tải GMC v.v rầm rộ rời tàu lên bờ. Tất cả "bình yên vô sự" trước những viên chức người Pháp và đại diện ICSC, nhờ đơn vị này đã che hoặc sơn lấp mấỳ chữ như U.S NAVY, các hình phù hiệu, phiên hiệu đơn vị v.v, nói chung là giấu hết tất cả những "dấu vết" quân sự nơi các phương tiện cơ giới. Riêng quân nhân cũng tháo những huy hiệu, phù hiệu v.v đơn vị trên áo quần và không mang vũ khí. Với cách ăn mặc như vậy, họ trông giống như công nhân dân sự hơn là hình dáng cuả người lính.
Trong vòng năm ngày tiếp theo, Tiểu Đoàn 1 Thuỷ Bộ - Kiến Tạo với sự giúp sức cuả lính Pháp và người Việt làm thiện nguyện, Ong Biển ACB 1 đã hoàn tất việc thiết lập trại tiếp cư thứ nhất ở Hải Phòng, giúp 15.000 người có nơi nương náu. Với 149 căn lều nằm theo từng lô và ngay hàng thẳng lối, nhìn rất yên bình, trại này được đặt tên là "Trại Tỵ Nạn Cái Đình" ("Refugee Camp de la Pagode", lạ ở chỗ quanh khu vực trại chẳng có cái đình hay cái chuà nào cả). Từ đây, các trại lều tiếp đón và tạm trú người vượt thoát cộng sản lần lượt được dựng lên dọc theo Quốc Lộ 10 Hà Nội - Hải Phòng với những cái tên: Camp Shell; Camp Lạch Tray; Camp Cement; Camp Jardin des Enfants v.v.
Một nữa Trại Tỵ Nạn Cái Đình (Refugee Camp de la Pagode)
Bến Đi Và Bờ Đến Trên Đường Tìm Tự Do.
Đầu tháng 9/ 1954, lúc các trại tiếp đón người Việt vượt thoát cộng sản lần lượt được dựng lên và bắt đầu lo cho khoảng 90.000 ngưòi vừa mới đến, cũng là lúc các nguồn tiếp tế nhân đạo từ khắp nơi trên thế giới được gởi đến Việt Nam. Từ Châu Âu, từ Bắc Mỹ, từ Ấn Độ, Úc và Tân Tây Lan, từ Phi Luật Tân, Úc và Tân Tây Lan, từ Đài Loan; Okinawa; Yokosuka; Hawaii v.v. Các loại hàng cứu trợ được các ân nhân gởi đến nhiều nhất là gạo, thịt hộp, cá hộp, cá khô, mỡ thực vật hoặc mỡ động vật đóng hộp, dầu nấu ăn, dầu lửa, sữa bột, rau cải, trái cây, bánh kẹo, âu dược, quần áo, xà phòng, khăn tắm, bàn chải và kem đánh răng, bột DDT v.v. Hãng thuốc tây Pfizer Company tại Brooklyn New York hiến tặng đợt đầu 50.000 vỉ thuốc viên Terramycin. Các đợt sau hãng này gởi tặng thêm hàng trăm ngàn viên thuốc các loại như Penicilin; Streptomycin; Magnamycin v.v. Hãng máy bay Pan America Airway tặng 10.000 thỏi xà phòng; Hãng Meade - Johnson ở tiểu bang Indiana tặng hàng chục ngàn lít dược chất Vitamin tổng hợp v.v... Các phái đoàn cuả nhiều quốc gia cử người đến quan sát cuộc sống ở trại để tìm hiểu thêm các nhu cầu. Những phái đoàn cuả chính phủ Việt Nam, Mỹ cũng thường xuyên lui tới thăm viếng, kể cả Đại Tướng Joseph Lawton Collins, Đặc Sứ Liên Bang Mỹ ở Việt Nam; Tư Lệnh MAAG Trung Tướng John O'Daniel v.v. Hải Phòng lúc này tràn ngập người tỵ nạn nhưng không còn ai sống vất vưởng ngoài lề dường như trước đó. Phóng viên các tờ báo lớn, các hãng thông tấn quốc tế đến Hải Phòng làm phóng sự, nhận xét và chụp hình nhiều nhất là những tạp chí như LIFE, National Geographic, Paris March v.v...
Lúc đến trại, mỗi người dù lớn hay nhỏ tuổi cũng được phát 600 gr gạo cho mỗi ngày cùng với nhiều loại thực phẩm kèm theo. Việc nấu nướng thì tự túc vì hầu như gia đình nào lúc ra đi cũng mang theo soong nồi, riêng than, củi hoặc dầu lửa cũng được cấp mỗi ngày. Kể từ tháng 11/ 1954, người đến trại không ai ở lâu quá ba tuần lễ sau khi đã được khám sức khoẻ, điền phiếu thủ tục hành chánh, lãnh quần áo, chăn mền, cắt tóc v.v. Mỗi trại có ký hiệu mẫu tự riêng, từng căn lều có số thứ tự và người ở trại ai cũng có thẻ ghi tên họ và nguyên quán cuả mình v.v. Tuỳ theo địa thế cuả các trại, có nơi được đào giếng để lấy nước, có nơi thi máy bơm từ suối lên bồn chứa. Công binh Ong Biển cho dựng lên cao nhiều bồn cao su lớn, có thể chưá được 3.000 gallons nước. Nước trong các bồn sẽ được lọc, sát trùng rồi mới phân phối xử dụng. Trung bình mỗi ngày, có tới 12.000 gallons nước được cung cấp cho việc nấu ăn, uống, tắm ở mỗi trại. Riêng những căn lều cuả y tế thì đặc biệt khá lớn, có thể chưá được từ 300 tới 500 bệnh nhân nằm điều trị ngắn hạn. Nếu có người mang bệnh nan y hoặc quá trầm trọng, bệnh nhân sẽ được ưu tiên đưa đến bệnh viện Hải Phòng hay những bệnh viện hạm ngoài Vịnh Hạ Long. Các bệnh phổ biến nhất trong lớp người đến trại là sốt rét, đậu muà, thương hàn, cảm ho, lở mắt, ghẻ nhọt ngoài da v.v. Ở mỗi trại trung bình một ngày có gần 2.000 người xin khám bệnh. Hải quân Pháp ở Hải Phòng, được sự chấp thuận cuả Đô Đốc Jean Marie Querville, đã nhường cho hải quân Mỹ dùng một trung tâm thí nghiệm khá lớn để tập trung phân tích, tìm bệnh từ các mẫu máu cuả người đến trại. Ngay cả phu nhân cuả vị đô đốc nêu trên, Madame Querville cũng sốt sắng tham gia làm thiện nguyện ở bệnh viện Hải Phòng và thăm viếng các trại. Một vị phụ nữ đáng kính khác cũng âm thầm làm việc nhân đức là bà Vũ Thị Ngãi, được mọi người ưu ái gọi là Madame Ngãi. Bà là người đích thân lặn lội đi tìm và nuôi dưỡng hàng trăm trẻ em bất hạnh ở Thanh Hoá; Nam Định; Hải Phòng rồi vô tới Sài Gòn sau này. Các em bà cưu mang hầu hết là trẻ mồ côi, lạc gia đình vì chiến cuộc, bị bỏ rơi vì tật nguyền v.v. Việc quản trị về y tế cho người di cư ở Hải Phòng và các trại thì do Trung Tá Hải Quân, bác sĩ James Grindell đảm trách. Những bác sĩ hải quân thường trực ở các trại có Đại Úy Julius Amberson; Đại Úy William Cox's; Đại Úy Sidney Britten; Trung Úy Thomas A. Doolley v.v. Nhóm bác sĩ lo việc tiếp tế và phân phối y cụ, dược phẩm thì có Trung Úy Edmund Gleason; Trung Úy Richard Kaufman; Trung Úy David Davison. Nhóm y tá có các vị như Dennis Shepard; Peter Kessey; Norman Baker; Robert Prusso; Edward Maugre; J. Harris v.v...
Lúc hai tháng đầu hoạt động, trung bình mỗi ngày từng trại có từ 400 tới 600 người tìm đến. Về sau lên tới con số ngàn rồi chục ngàn. Có lúc nguyên cả một làng hàng ngàn người cũng tìm tới trại. Các trại đón tiếp vào khoảng tháng 10 về sau, mỗi nơi đông từ 12. 000 đến 15.000 người.
Chuyến tàu thứ nhất cuả hải quân Mỹ chở người di cư rời Vịnh Hạ Long ngày 17/ 8/ 1954 là chiếc USS Menard (vận tải hạm), tàu này chở vào Sài Gòn 1924 người.
(USS Menard, chuyến tàu thứ nhất của Mỹ chở 1.924 người di cư vào Nam)
Chuyến thứ hai ngày kế tiếp, chiếc USS Montrose mang theo được 2.100 người. Và còn nữa, .. còn rất nhiều người đến, và cũng còn rất nhiều tàu sẵn sàng chờ đưa những người không chấp nhận cộng sản vượt đến bến bờ tự do.
Cuối tháng 8/ 1954, một trận bão đổ ập xuống Hải Phòng và phá huỷ hơn một nữa tổng số trại lều trong khu vực. Sau trận bão, Lực Lượng TF 90 cho điều động thêm tàu vận tải, đồng thời cho tăng mức độ vận chuyển cuả từng con tàu, cứ ba ngày hai đêm là đến Sài Gòn, hôm sau trở ra Hải Phòng chở tiếp. Dọc theo thềm bờ biển Việt Nam vào cuối năm 1954, có tới hàng trăm con tàu trực chỉ hai miền Nam - Bắc suốt ngày và đêm, tàu ngược xuôi như những con thoi trên mặt nưóc. Trong vòng hai tuần đầu tháng 9 sau trận bão, các tàu Mỹ đã chuyển vận vào Nam được 47.000 người ! Từ giai đoạn này trở đi, số người di cư được chuyển dồn dập tới Sài Gòn, ngày nào cũng có vài chiếc cập bến. Người đông tới mức làm các tổ chức lo đón tiếp làm việc không xuể, họ buộc phải báo cáo lên Phủ Tổng Ủy Di Cư - Tỵ Nạn về vấn đề này. Chính phủ Việt Nam sau đó thông báo với phiá Mỹ, yêu cầu họ chỉ nên cho những tàu nào chở dưới 2.500 người mới được ghé Vũng Tàu hoặc Sài Gòn. Yêu cầu nêu trên chỉ tạm thời cho tới sau ngày 25/ 9/ 1954.
Ngày 9/ 10/ 1954, Pháp làm lễ hạ cờ tại Hà Nội, họ phải tập trung về Hải Phòng để rút toàn bộ khỏi miền Bắc Việt Nam. Ngày 12/ 12/ 1954, Mỹ đóng cửa Toà Lãnh Sự ở Hà Nội
Lúc đến được các trại tạm cư ở Đà Nẵng, Sài Gòn v.v, đồng bào di cư được cấp 12 đồng cho mỗi ngày đối với người lớn, trẻ em được 6 đồng, kèm theo thực phẩm cứu trợ và vật dụng cần thiết. Tới ngày 11/ 3/ 1955, cứ mỗi người mới đến, không phân biệt lứa tuổi sẽ được cấp một lần số tiền 800 đồng. Lúc tới nơi định cư chính thức, mỗi người sẽ được cấp một lần 3.000 đồng để tự túc làm nhà, không tính vào vật liệu được cung cấp, dụng cụ làm nông, các loại hạt giống, phân bón, giường, tủ, bàn ghế, chăn màn và thực phẩm cứu trợ được cung cấp đều đặn đến khi cuộc sống được ổn định. Ở thành phố Đà Nẵng có những trại định cư như Thanh Bồ; Đức Lợi; Tam Toà, xa hơn một chút thì Hội An v.v. Riêng ở thủ đô Sài Gòn và vùng phụ cận có khoảng 10 trại tiếp cư tạm thời được thiết lập ở Phú Thọ; Bình Đông 1; Bình Đông 2; Bình Đông 3; Bình Trị Đông; Bình Thới, khu vực cầu Nhị Thiên Đường; Bảo Hưng Thái; Rạch Dưà; Xuân Trường (Thủ Đức); Biên Hoà v.v. Đó là chưa tính nhiều địa điểm tiếp cư nhỏ hơn ở các trường học nội đô Sài Gòn, hoặc tại Gò Vấp; Thủ Dầu Một, khuôn viên Toà Hành Chánh tỉnh Gia Định, Hoà Khánh (Chợ Lớn), khuôn viên Sở Cứu Hoả Đô Thành trên đường Trần Hưng Đạo v.v. Từ những nơi tạm cư sau những ngày đầu vượt thoát cộng sản, đồng bào di cư sẽ đưọc đưa đến lập nghiệp dài lâu trong 156 Khu Định Cư ở miền Nam; 65 khu ở miền Trung và 34 khu ở Cao Nguyên Trung Phần.
Đến cuối tháng 3/ 1955, các trại lều tạm trú ở Hải Phòng lần lượt tháo gỡ, số người tìm tới trại cũng giảm dần. Sang đầu tháng 4/ 1955, chỉ còn lại ba khu trại và khoảng 30.000 người đang chờ xuống tàu. Đến ngày 10/ 5/ 1955, tất cả các trại lều đều được tháo gỡ, Người chờ xuống tàu còn khoảng 4.000. Số người này được đưa vào thành phố Hải Phòng tạm trú trong những khu vực do Pháp và Mỹ kiểm soát. Cùng lúc đó phiá người Pháp ở Hải Phòng cũng giảm xuống còn khoảng 300 người, những ngưòi này được lệnh gấp rút tháo gỡ và đem xuống tàu tất cả những gì hữu dụng, từ máy móc cho tới bàn ghế, tủ, giường. Nói tóm lại là dọn sạch. Người Pháp quyết không chừa một thứ gì có giá trị lọt vào tay cộng sản. Tính tới giữa tháng 4/ 1955, đại diện MAAG cuả Mỹ vẫn còn vài người ở Hải Phòng như các Thiếu Tá Ralph Walker; Roger Ackley; Mike Walker; John McGowan; Norman Paulin v.v. Chuyến máy bay cuối cùng cuả Mỹ rời Hải Phòng ngày 11/ 5/ 1955. Chuyến tàu chót cuả Lực Lượng TF 90 là chiếc USS General A.W. Brewster, rời Vịnh Hạ Long ngày 15/ 5/ 1955 cùng với 1.300 người. Chuyến tàu chở người di cư sau cùng cuả hải quân Pháp là chiếc Gascogne, rời Hải Phòng ngày 26/ 5/ 1955 với 888 người.
(Còn tiếp ở kỳ 2)
----------

Ý kiến đóng góp và bài vở xin gởi đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. - Cám ơn