Vì sao Trung Quốc không tạo căng thẳng với Việt Nam như Philippnes?
Tác Giả : Nam Việt | Nguồn: rfavietnam | Ngày đăng :2024-08-03 |
Thái độ im lặng nhẫn nhịn của Bắc Kinh, đối với việc mới đây, Hà Nội đệ trình Hồ sơ Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam tại Khu vực Giữa Biển Đông (VNMC), lên cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) là điều mà nhiều nhà quan sát ngạc nhiên. Không những vậy, nhân cơ hội nói trước Liên Hợp Quốc, Hà Nội cũng tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường, và các quyền của Việt Nam đối với các vùng biển của Việt Nam ở Biển Đông được xác lập phù hợp với UNCLOS. Bắc Kinh cũng cho vài tờ báo thân chính phủ phàn nàn nhưng không quá nặng lời, rồi thôi.
Thái độ của Trung Quốc với Việt Nam có thể giải thích ra sao, nhất là khi tàu của Bắc Kinh đang ngăn cản, đâm, đe dọa và thách thức Philippines công khai, và như sẵn sàng dẫn đến xung đột lớn hơn?
Mặc dù Việt Nam đang đẩy mạnh việc bồi đắp đất ở quần đảo Trường Sa, vốn là đối tượng tranh chấp với Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh lại tỏ ra khá im lặng trước những hành động xâm phạm của Hà Nội. Điều này trái ngược hẳn với những tháng ngày đối đầu căng thẳng, thậm chí bạo lực, ở phía bên kia Biển Đông, đỉnh điểm là vào ngày 17 tháng Sáu, khi một số tàu tuần tra của Hải cảnh Trung Quốc đã đâm va vào một tàu hải quân Philippines đang thực hiện nhiệm vụ tiếp tế cho binh lính trên con tàu Sierra Madre bị mắc cạn.
Có nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự khoan dung của Trung Quốc đối với hành động của Việt Nam, một trong số đó là do hai nước có chung hệ tư tưởng chính trị. Tuy nhiên, hệ tư tưởng không thể giải thích được sự im lặng của Trung Quốc. Có những lý do địa chính trị khác đang tác động. Sự hòa giải giữa Hà Nội và Washington, đã biến mối quan hệ từ thù địch sang hữu nghị, đã ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược của Bắc Kinh đối với Việt Nam.
Về mặt chính sách, Trung Quốc không thể để mất Việt Nam vào tay Mỹ, bất chấp việc Hà Nội đang đẩy nhanh tốc độ xây dựng các căn cứ đảo. Theo Sáng kiến Minh bạch Biển Đông Châu Á, chương trình nạo vét của Việt Nam đã ngày càng mở rộng hơn trong năm nay. HIện nay, tổng diện tích hoạt động nạo vét và lấp đất của Việt Nam lên hơn 900 hecta trên khắp quần đảo Trường Sa, tương đương khoảng một nửa diện tích đất mới mà Trung Quốc đã tạo ra trong thập kỷ qua, theo ấn phẩm thương mại The Maritime Executive.
Trái ngược với thái độ dường như khoan dung của Trung Quốc đối với Việt Nam, ở phía đông, Philippines rõ ràng là đồng minh và là một “cái gai trong mắt” của Mỹ, trao quyền cho quân đội Mỹ sử dụng các căn cứ Philippines thông qua một loạt các thỏa thuận chính thức ngày càng mở rộng, trong một vùng biển mà Trung Quốc cho rằng là của mình. Tổng thống Ferdinand Marcos đã đến thăm Washington, D.C. để tuyên bố các sáng kiến mới nhằm phát triển quan hệ Mỹ-Philippines, bao gồm việc thông qua các hướng dẫn quốc phòng song phương và một loạt các ưu đãi ngoại giao khác đã khiến Bắc Kinh khó chịu. Vụ việc vũ trang gần đây tại Bãi Cỏ Rong là minh chứng cho mối quan hệ đang xấu đi giữa hai nước láng giềng, có thể gây ra những tác động địa chính trị vượt ra khỏi khu vực.
Nhưng điều này không có nghĩa là Trung Quốc không cảm thấy bị đe dọa bởi Hà Nội, quốc gia đã chiếm giữ nhiều đảo, đá và các mỏm đá nhô lên khỏi mặt nước nhất – với 27 thực thể ở Biển Đông. Trong khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với khu vực rộng lớn nhất dựa trên đường chín đoạn, Bắc Kinh chỉ chiếm giữ 7 thực thể như vậy, Đài Loan 1, Malaysia 5 và Philippines 9.
Bên cạnh việc chia sẻ hệ tư tưởng chính trị và địa chính trị, Hà Nội cũng miễn cưỡng làm tổn hại đến mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc. Hiện tại, Trung Quốc đã đầu tư hơn 26 tỷ USD vào Việt Nam, với khoảng 4.000 dự án đang hoạt động. Việt Nam cũng là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc trong nhiều năm, với kim ngạch thương mại song phương ước tính đạt 175,6 tỷ USD vào năm 2022, tăng từ 160 tỷ USD một năm trước đó, trong đó 67% nguyên liệu đầu vào quan trọng cho ngành sản xuất của Việt Nam cũng được nhập khẩu từ Trung Quốc. Xét đến những con số này, Hà Nội không thể để mối quan hệ kinh tế với Trung Quốc bị ảnh hưởng.
Trung Quốc đã tích cực thu hút Việt Nam sau những thái độ thân thiện của Hà Nội đối với Washington. Ba tháng sau khi Việt Nam tiếp đón Tổng thống Mỹ Joe Biden, Chủ tịch Tập Cận Bình đã được chào đón tại Hà Nội. Theo một số nguồn tin, chuyến thăm đã dẫn đến việc ký kết 37 thỏa thuận, bao gồm các thỏa thuận về phát triển đường sắt xuyên biên giới, thương mại và tuần tra chung ở Vịnh Bắc Bộ.
Kể từ chuyến thăm đó, đã có một số cuộc tiếp xúc cấp cao giữa các quan chức cấp cao của cả hai quốc gia. Chuyến thăm Hà Nội của Tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 6 vừa qua cũng đã góp phần củng cố và làm sâu sắc hơn mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng trong khu vực.
Việc bổ nhiệm cựu Bộ trưởng Công an Tô Lâm làm Chủ tịch nước Việt Nam vào tháng 5 năm 2024 đã, theo một số nhà phê bình, thúc đẩy mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Chủ tịch Tô Lâm được cho là có mối quan hệ thân thiết với Trung Quốc. Trung Quốc cũng đang được hưởng lợi từ chính sách đối ngoại “Ba không” của Việt Nam, bao gồm “không liên minh quân sự, không liên kết với quốc gia này chống lại quốc gia khác và không cho phép nước ngoài đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình”. Trung Quốc không ngần ngại bày tỏ mong muốn chính sách “Ba không” của Việt Nam sẽ giữ quân đội Mỹ ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Không nhiều người biết rằng, bất chấp những tranh chấp lãnh thổ và những vụ việc bùng phát bất ngờ, khó tránh khỏi, nhưng hai nước cộng sản này đã âm thầm hợp tác để kiểm soát căng thẳng giữa hai bên. Các thỏa thuận hợp tác nhằm ngăn chặn xung đột trên biển bao gồm:
Hiệp định song phương về phân định biên giới trên biển (2000): Trung Quốc và Việt Nam đã ký kết một hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ, bao gồm việc xác định ranh giới biển và một thỏa thuận hợp tác về nghề cá. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc quản lý các ranh giới biển giữa hai nước. Gần đây (2024), Trung Quốc đã xác định đường cơ sở cho vùng biển lãnh hải của mình ở Vịnh Bắc Bộ.
Hiệp định về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề trên biển (2011): Hiệp định này nêu bật các nguyên tắc cơ bản để giải quyết tranh chấp trên biển thông qua đàm phán hòa bình. Hiệp định nhấn mạnh sự tôn trọng lẫn nhau, hợp tác và tìm kiếm phát triển chung trong khi quản lý những khác biệt thông qua đối thoại.
Trung Quốc và Việt Nam đã thành lập các nhóm công tác chung để giải quyết các vấn đề cụ thể ở Biển Đông, bao gồm phát triển chung và hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm hơn, như bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học và hoạt động tìm kiếm cứu nạn.
Hà Nội và Bắc Kinh cũng nối lại liên lạc đường dây nóng (2013): Để quản lý và ngăn chặn các sự cố trên biển, cả hai nước đã đồng ý thiết lập đường dây nóng trực tiếp giữa các bộ ngoại giao của họ. Cơ chế này nhằm mục tiêu cải thiện giao tiếp và giảm nguy cơ leo thang trong trường hợp xảy ra sự cố trên biển.
Từ đây, các chuyến thăm và đối thoại cấp cao thường xuyên như chuyến thăm của Chủ tịch Tập Cận Bình vào năm 2023: Cả hai nước đều tham gia các chuyến thăm và đối thoại cấp cao thường xuyên để quản lý những khác biệt của họ. Bao gồm các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo và quan chức từ cả hai bên để thảo luận về các vấn đề khác nhau, bao gồm cả tranh chấp trên biển, và tìm kiếm cách thức tăng cường hợp tác.
Bất chấp những thỏa thuận và cơ chế này, căng thẳng đôi khi bùng phát do các sự cố trên biển, chẳng hạn như các cuộc đụng độ giữa tàu cá và tàu tuần tra. Tuy nhiên, những nỗ lực đối thoại và đàm phán liên tục phản ánh sự công nhận của cả hai nước về nhu cầu quản lý tranh chấp một cách hòa bình và hợp tác.
Việt Nam, với vị trí chiến lược và chính sách đối ngoại tự nói là như cây tre, thuận uốn cong theo mọi chiều gió, đóng vai trò quan trọng. Do đó, Bắc Kinh, vốn có mối quan hệ phức tạp với Việt Nam trong nhiều thế kỷ, trước khi chính sách xoay trục sang Mỹ của Washington được triển khai và sau khi Hà Nội gần đây hòa giải với Mỹ, đang dựa vào mối quan hệ đặc biệt của mình để kiểm soát căng thẳng với Mỹ ở Biển Đông. Điều đó một phần giải thích tại sao Trung Quốc có xu hướng bỏ qua việc Việt Nam bồi đắp đất ở Trường Sa.
----------
Ý kiến đóng góp và bài vở xin gởi đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. - Cám ơn |