Ấn Độ - Thái Bình Dương : Những thách thức quốc phòng cho Trung Quốc
Nguồn: RFI Ngày đăng: 2024-01-12
Thế giới những năm gần đây nói nhiều về khái niệm Ấn Độ - Thái Bình Dương, nhưng thuật ngữ này dường như chưa bao giờ được Trung Quốc đề cập đến. Tại một khu vực từ lâu do Mỹ thống trị, đâu là vị thế của Trung Quốc ? Liệu Bắc Kinh có một tầm nhìn và một chiến lược đặc biệt cho vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương ?
Lễ hạ thủy tầu sân bay Phúc Kiến của Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) ngày 17/06/2022. AFP - -
Đối với nhiều nhà quan sát đây là một điểm thú vị. Nghiên cứu các phiên bản Sách Trắng Quốc phòng của các năm 2017 và 2019, người ta nhận thấy không một lần nào Bắc Kinh đề cập đến “ Ấn Độ - Thái Bình Dương ”1. Không những thế, Bắc Kinh thường xuyên chỉ trích mạnh mẽ khái niệm này, cho rằng đây là một hình thức phương Tây, đi đầu là Mỹ, vây hãm Trung Quốc.
Ấn Độ - Thái Bình Dương…
Nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc Bắc Kinh không có chính sách Ấn Độ – Thái Bình Dương. Theo Tanguy Struye de Swielande2, giáo sư ngành Quan hệ Quốc tế, trường đại học Công giáo Louvain (Bỉ), trên thực tế, Trung Quốc đã dùng lại lô-gic của khái niệm này qua việc xây dựng một tầm nhìn chiến lược, kết nối hai vùng Châu Á – Thái Bình Dương, khu vực ưu tiên, vùng ảnh hưởng tự nhiên và Ấn Độ Dương, khu vực Trung Quốc tìm cách gia tăng sự hiện diện như tại Maldives, Seychelles, Sri Lanka.
Vùng châu Á – Thái Bình Dương, xuất phát từ Hoàng Hải, băng qua biển Hoa Đông và eo biển Đài Loan, để rồi đi xuống Biển Đông, là khu vực mà Bắc Kinh có yêu sách chủ quyền nhiều nhất. Từ góc nhìn quân sự, khu vực này tạo thành tuyến phòng thủ đầu tiên. Chính sách này của Trung Quốc được thể hiện rõ qua việc xây dựng và quân sự hóa nhiều đảo nhân tạo hay tự nhiên (như tại quần đảo Trường Sa, bãi cạn Scarborough, Hoàng Sa).
Trong một mục tiêu dài hạn đến năm 2049, từ tuyến phòng thủ đầu tiên này, Trung Quốc có thể triển khai đến chuỗi đảo thứ hai (quần đảo Ogasawara, Saipan và Guam) và thậm chí có thể thiết lập tuyến phòng thủ thứ ba gần Hawai. Trong khuôn khổ tham vọng này, Bắc Kinh phát triển một chiến lược chống xâm nhập và vô hiệu hóa các căn cứ quân sự tiền tuyến của Mỹ nhằm ngăn chặn mọi ý đồ triển khai sức mạnh của quân đội Mỹ.
… Và chiếc cầu nối Đông Nam Á
Liên quan đến Ấn Độ Dương, ở Trung Quốc, những người theo trường phái Alfred Mahan – một sĩ quan hải quân, nhà sử học và chiến lược gia hải quân người Mỹ thế kỷ XIX – tỏ lập trường rất rõ ràng : “ Ai kiểm soát được Ấn Độ Dương sẽ làm chủ được châu Á. Ấn Độ Dương là lối thông ra bảy vùng biển trên thế giới. Vận mệnh của thế giới trong thế kỷ XXI sẽ do Ấn Độ Dương định đoạt ”.
Thế nên, đối với Trung Quốc, việc hiện diện tại Ấn Độ Dương trở nên thiết yếu, do đó là những tuyến hàng hải đến châu Phi và Trung Đông để nhập khẩu nguyên nhiên liệu, và đi đến châu Âu để xuất khẩu hàng gia công. Hệ quả là Trung Quốc tăng cường hiện diện quân sự, như mở căn cứ quân sự ở Djibouti, hay hiện diện quân sự ở cảng Gwadar, Pakistan.
Trong chiến lược này, khu vực Đông Nam Á giữ vai trò địa chính trị quan trọng đối với Trung Quốc. Điều này được thể hiện rõ qua việc phát triển chính sách Những Con Đường Tơ Lụa Mới của Bắc Kinh. Kiểm soát được Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) sẽ giúp Trung Quốc dễ dàng tiến ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Một điểm khác cho thấy tầm quan trọng của khu vực là eo biển Malacca. Nút thắt “ yết hầu ” này có thể đẩy Trung Quốc rơi vào thế yếu nếu hạm đội Mỹ phong tỏa vùng biển chặn đường tiếp nhiên liệu cho Bắc Kinh, trong trường hợp xảy ra xung đột với Washington.
Để giảm thiểu nguy cơ này, Trung Quốc phải tăng cường hiện diện trong khu vực và nhắm đến việc hộ tống các tầu hàng. Tuy nhiên, điều này có nguy cơ dẫn đến phản ứng quân sự từ một số nước Đông Nam Á, xem chính sách này của Bắc Kinh như là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia.
Khủng hoảng eo biển Đài Loan 1995-1996 : Cột mốc!
Nhưng ngoài việc tìm cách mở rộng ảnh hưởng, bảo đảm an toàn giao thương hàng hải, mục tiêu sau cùng của Trung Quốc là làm thế nào “ xua đuổi ” được Hoa Kỳ ra khỏi vùng ảnh hưởng trực tiếp để có thể áp đặt các ý muốn của mình tại khu vực.
Trả lời phỏng vấn tạp chí DSI, số đặc biệt tháng 10-11/2023, nhà địa chính trị Valérie Niquet, chuyên gia về Trung Quốc và Đông Nam Á, từng nhận định đây sẽ là một thắng lợi cho Trung Quốc nếu nước này “ thuyết phục được các quốc gia trong khu vực rằng Hoa Kỳ không có chỗ trong vùng, và làm cho Mỹ nhận thấy rằng việc quyết định phiêu lưu xung đột với Trung Quốc sẽ trả một cái giá rất đắt. ”
Do đó, mọi nỗ lực của Trung Quốc là tập trung cho cuộc chiến thông tin, cuộc chiến gây ảnh hưởng và nhất là phát triển một đội quân hùng mạnh nhất thế giới từ đây đến năm 2049, theo như mục tiêu mà chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề ra. Chuyên gia quân sự Mathieu Duchatel3, giám đốc chương trình châu Á, Viện Montaigne, cho rằng, để hiểu rõ những tham vọng quân sự này của Trung Quốc, cần phải lồng sự việc trong vấn đề Đài Loan.
Cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ ba năm 1995-1996 là động lực thúc đẩy chương trình hiện đại hóa Quân Đội Giải phóng Nhân dân (PLA) trong nhiều lĩnh vực. Mục tiêu là nhằm có được khả năng đánh gục Đài Loan bằng vũ lực, đồng thời có thể ngăn chặn Mỹ can thiệp, tiếp cận các chuỗi đảo đầu tiên.
Trong một kịch bản tốt nhất, khả năng chống xâm nhập của Bắc Kinh đủ ngăn cản Hoa Kỳ can thiệp. Nhưng trong kịch bản tồi tệ, đối đầu trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có thể xảy ra. Do vậy, Tập Cận Bình nhân kỳ đại hội đảng lần thứ 19 đã tuyên bố rằng Trung Quốc phải có một “ đội quân tầm cỡ thế giới từ đây đến năm 2050 ”. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Trung Quốc phải có một quân đội chiến lược “ ngang vai, ngang vế ” với Hoa Kỳ.
Năm 2023, Trung Quốc dành đến 225 tỷ đô la cho quốc phòng, tăng hơn 7%, một mức tăng cao nhất tính từ năm 2019. Đương nhiên, Hoa Kỳ vẫn là cường quốc quân sự hàng đầu thế giới với mức ngân sách quốc phòng hàng năm dành ra là gần 800 tỷ đô la, chiếm đến 39% tổng chi tiêu quân sự toàn cầu.
Lột xác !
Nhưng từ năm 2010, Trung Quốc đã có mức ngân sách quốc phòng đứng hàng thứ hai trên thế giới. Theo nhà địa chính trị Fabrice Ravel4, điều thật sự thú vị là “ từ 26 năm qua, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng đều đặn. Đây là điều không thể tưởng. Chưa có một nước nào trên thế giới có một sự tăng trưởng trong một quãng thời gian dài như thế. Nhất là mức tăng này chiếm đến gần 500% ngân sách. Đây thật sự là điều đáng quan tâm. ”
Trong quá trình hiện đại hóa quân đội, Trung Quốc dành ưu tiên cho hai thành tố chính. Thứ nhất là lực lượng hải quân. Từ một lực lượng bảo vệ bờ biển, phòng thủ, hải quân Trung Quốc biến thành một lực lượng hải dương có thể triển khai xa bờ và làm chủ nhiều loại tầu chiến tân tiến, mang tính biểu tượng cao. Chuyên gia Fabrice Ravel nhận định tiếp :
Lần đầu tiên hải quân Hoa Kỳ cho rằng Trung Quốc đang qua mặt Mỹ về số lượng. Họ ước tính rằng Trung Quốc có hơn 360 tầu chiến so với con số 297 của hải quân Mỹ. Đáng chú ý hơn nữa là khả năng sản xuất và lắp ráp các loại tầu chiến lớn có tính biểu tượng cao. Đầu tiên là tầu ngầm hạt nhân.
Người ta ước tính Trung Quốc có khả năng cho xuất xưởng một chiếc mỗi 15 tháng. Nếu tiếp tục lắp ráp theo nhịp độ này, từ đây đến năm 2030, Trung Quốc sẽ có 13 chiếc tầu ngầm hạt nhân. Điều đó có nghĩa là Bắc Kinh sẽ có nhiều tầu ngầm hạt nhân trong vùng hơn Mỹ.
Thứ đến là hàng không mẫu hạm. Trung Quốc đã mua một chiếc từ Ukraina năm 1998 và đã cho cải tạo, trang bị lại. Tiếp đến Trung Quốc cho hạ thủy hai chiếc khác, trong đó chiếc Sơn Đông đã chính thức đi vào hoạt động. Cùng lúc Bắc Kinh gia tăng số hàng không mẫu hạm, trang bị thêm chiến đấu cơ (…)
Điều thú vị là Trung Quốc dành đến 5,5 tỷ đô la cho việc thiết kế và lắp ráp hàng không mẫu hạm. Trong triển vọng này, Trung Quốc sẽ có thêm bốn chiếc trong thời gian sắp tới. Giới chuyên gia Canada cho rằng mục tiêu của Trung Quốc là có khoảng một chục chiếc hàng không mẫu hạm. ”
Lĩnh vực thứ hai được Trung Quốc ưu tiên đầu tư nhiều là hạt nhân. Trung Quốc xây dựng 250 xi-lô để cất trữ tên lửa đạn đạo liên lục địa. Theo ước tính, lực lượng hạt nhân Trung Quốc có khoảng từ 300-400 đầu đạn nguyên tử. Con số này có thể sẽ tăng lên vào khoảng 1000 trong thời gian sắp tới.
Emmanuel Veron, chuyên gia về Trung Quốc đương đại, trên đài France Culture ngày 29/12/2023, giải thích thêm rằng cùng với Nga và Mỹ, Trung Quốc là quốc gia duy nhất sở hữu bộ ba hạt nhân chiến thuật.
Thứ nhất là bộ phận không quân với các loại máy bay ném bom chiến lược, vốn đã trải qua quá trình hiện đại hóa rất đáng kể, từ 15 - 20 năm qua với các chương trình trang bị vũ khí, có khả năng mang bom hạt nhân. Đặc biệt là loại máy bay ném bom chiến lược H6 nổi tiếng có tầm hoạt động xa, từ Biển Đông và vượt ra ngoài Đài Loan. Đây thật sự là một vấn đề chiến thuật, đòi hỏi sự kết hợp các chiến lược ở Châu Á Thái Bình Dương với thành phần này.
Thứ hai là thành phần trên bộ thông qua các xi-lô nằm ở vùng phía Tây rộng lớn của Trung Quốc, rồi ở nhiều địa điểm khác được “xếp diện bí mật”.
Cuối cùng, có lẽ phức tạp hơn, khó khăn hơn, là răn đe hạt nhân trên biển, tức là bằng tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân, tương đương với SSBN của Pháp đóng tại căn cứ Long Island ở Brest. Thành phần này phức tạp hơn, tinh vi hơn, bởi vì nó đòi hỏi cả khả năng chuyên chở, khả năng tàng hình của tàu ngầm và do vậy, đòi hỏi các công nghệ đặc biệt tiên tiến, cũng như khả năng trang bị một tên lửa trên tàu có hiệu quả, độ chính xác cao và có tất cả sự tinh tế, của một tên lửa hạt nhân có thể mang nhiều đầu đạn, v.v. Đây là một trong những vật thể phức tạp nhất trong hệ thống vũ khí.
Ngoài ra, Trung Quốc đang nghiên cứu sâu rộng vấn đề này cùng với các hệ thống tàu ngầm AIP động cơ đẩy kỵ khí khác, vốn dĩ nằm trong mục tiêu chiến lược về Đài Loan và ở Thái Bình Dương. ”
Những hạn chế
Một điểm khác cũng gây ngạc nhiên cho giới quan sát : Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới có một nền công nghiệp vũ khí có thể sản xuất tất cả các loại hệ thống vũ khí cùng một lúc. Rõ ràng Bắc Kinh đang trong lô-gic tăng cường năng lực quân sự trong tất cả các lĩnh vực. Mục tiêu là nhằm có được thế ưu tuyệt đối ngay trong lòng chuỗi đảo phòng thủ đầu tiên. Nhưng đồng thời Trung Quốc cũng phát triển các khả năng triển khai bên ngoài nhằm bảo vệ các lợi ích ngoài vùng Đông Á.
Nhìn chung, Bắc Kinh đã thiết lập một số điểm “ thiện chiến ”, có thể gây khó khăn cho Mỹ trong trường hợp xảy ra xung đột. Mathieu Duchatel, dẫn ví dụ năng lực chống tầu chiến tầm xa của Bắc Kinh. Đây thực sự là một mối đe dọa nghiêm trọng cho các chiến dịch quân sự của hải quân Mỹ trong vùng. Ngoài ra, nếu nhìn trên một không gian rộng, toàn vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, với sự hợp tác của các đồng minh và đối tác khu vực, hiện tại Hoa Kỳ đã xây dựng được một không gian thống lĩnh đối phó với các năng lực quân sự của Trung Quốc.
Dù vậy, giới chuyên gia cũng có chung một nhận định: một trong số các điểm yếu quan trọng của quân đội Trung Quốc hiện nay là thiếu kinh nghiệm chiến đấu. Cuộc chiến sau cùng Trung Quốc tham gia là cuộc chiến biên giới Việt Nam năm 1979. Giới quan sát đặt nhiều nghi vấn về khả năng phối hợp tác chiến liên quân của Trung Quốc. Và nhất là việc đảng Cộng sản Trung Quốc tập trung kiểm soát chính trị có thể là một rào cản lớn gây trở ngại cho quá trình ra quyết định, do ai cũng sợ phạm phải sai lầm và gánh lấy nhiều rủi ro !
--------------------
Ghi chú :
1. Khái niệm “ Ấn Độ - Thái Bình Dương ” được nhà địa chính trị học người Đức Haushofer dùng lần đầu tiên vào năm 1920. Nhưng thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe là người đầu tiên dùng thuật ngữ này vào mục đích chính trị năm 2007 trong khuôn khổ Đối thoại An ninh Bốn bên (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc và Ấn Độ).
2. Tạp chí Les Grands Dossiers de Diplomatie n°53, “ La démographie : un enjeu géopolitique majeur ”, số ra tháng 6-7/2019.
3. Tạp chí Les Grands Dossiers de Diplomatie n°73, “ Géopolitique de la Chine ”, số ra tháng 4-5/2023.
4. L'Armée chinoise, quels objectifs ? – ESCE – International Business School, ngày 18/10/2023.
----------