QUỐC TẾ CỘNG SẢN và CỘNG SẢN QUỐC TẾ.
(Phần 1)
Tác Giả : BĐQ Đỗ Như Quyên Ngày đăng :2024-08-04
Lời Giới Thiệu.
Kính thưa bạn đọc.
Kể từ đầu thế kỷ thứ 20, sau lúc cộng sản ở Nga thành công trong việc làm sụp đổ cả một đế chế rộng lớn vào năm 1917, sau đó họ thiết lập một "nhà nước" mang sắc thái mới lạ và rất "hấp dẫn" mà những người lãnh đạo phong trào "cách mạng" này gọi đó là chính quyền của nhân dân, chính quyền của tầng lớp nghèo khổ là công nhân và nông dân, hoặc ngắn gọn hơn thì gọi đấy là "chính quyền của giai cấp vô sản".
Từ năm 1917 cho tới khi Chiến Tranh Thế Giới Lần 2 kết thúc trong năm 1945, hình mẫu của chính quyền "vô sản" ở Nga là niềm mơ ước của biết bao con tim đang khát khao tìm sự độc lập, tự do, bình đẳng v.v cho quê hương mình, lúc đó vẫn còn nằm dưới sự cai trị của chế độ vua, quan phong kiến hoặc bị xâm lăng và thống trị bởi chủ nghĩa thực dân đến từ Âu Châu, có người còn nuôi chí hướng xa hơn là mong được mang lá cờ của chính quyền "vô sản" đến khắp nơi trên thế giới.
Trong vô số những người nuôi mộng ước đó, tầng lớp được cho là "trí thức, khoa bảng" đã bị thu hút mãnh liệt nên giới này không ngần ngại sự dấn thân. Họ đến với "lý tưởng cộng sản" một cách chân thành, coi lý thuyết " xã hội chủ nghĩa" như một cứu cánh cao cả nhất để mang lại hạnh phúc, thịnh vượng không những cho tổ quốc mà cho cả toàn nhân loại. Chính họ là những người đi đầu khơi dậy ngọn lửa chống áp bức, bất công, nghèo đói đang âm ỉ và dồn nén trong tầng lớp nông dân và thợ thuyền. Kết quả là từ năm 1917 đến khi các chế độ cộng sản lần lượt sụp đổ vào năm 1990, đã có rất nhiều xứ sở trải qua các cuộc bạo lọạn "cách mạng", chiến tranh "giải phóng" v.v để xoá bỏ thể chế cũ và thiết lập nên chính quyền "vô sản", và những lá cờ đỏ "buá - liềm" đã tung bay ngạo nghễ trên gần một nữa diện tích đất đai của quả địa cầu trong giai đoạn đó.
Chỉ đến khi các thành lũy cộng sản lần hồi tan rã (trừ Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn; Cuba), giới trí thức, khoa bảng từng nuôi ảo tưởng về "chủ nghĩa đại đồng" mới giật mình tỉnh ngộ khi vô số các tội ác tàn bạo của cộng sản bị phơi bày. Lúc đó họ mới biết nhiều thế hệ có ăn học, có bằng cấp như mình đã bị lừa bịp một cách thâm hiểm bởi các đảng viên cộng sản lão luyện trong lãnh vực tuyên truyền. Lúc họ sáng mắt ra, dù sao, cũng đã muộn rồi. Sự sám hối của họ bây giờ chắc chắn không thể làm sống lại hàng trăm triệu nạn nhân đã bị cộng sản giết hại bằng đủ loại hình thức, trong đó cũng có rất nhiều trí thức từng can đảm lên tiếng tố cáo tội ác của cộng sản. Sự ăn năn thống hối của họ cũng không thể nào khoả lấp hoặc hàn gắn được những tan vỡ, những mất mát chia lìa của biết bao nhiêu gia đình đang sống trong ác mộng vì những người thân yêu ra đi trong tức tưởi. Và họ cũng chẳng thể một sớm, một chiều tẩy rửa được hết các "di căn" hậu họa do cộng sản để lại trong lối sống của thế hệ trẻ hôm nay như sự dối trá, lừa đảo, vô luân lý, phi đạo đức, ích kỷ, độc ác, xảo quyệt để tiến thân và nhất là bị mù loà về văn hoá, kiến thức v.v. Nhưng phải lấy công tâm để nhìn nhận, sự thức tỉnh và biết đền đáp lại những ngu muội của mình trong giới trí thức, khoa bảng một thời lầm lạc vì cộng sản, ít ra cũng xoa dịu một phần nào đó trong nỗi đau đớn chung của xã hội loài người trước thảm họa cộng sản.
Tuy nhiên, không phải tất cả các trí thức, khoa bảng đều tỉnh ngộ hay biết phục thiện sau khi các sự thật ê chề của cộng sản bị đưa ra ánh sáng, trái lại có một số vẫn lì lợm tiếp tục làm công cụ cho cộng sản, chấp nhận đem tài năng và trí tuệ của mình phục vụ cho tội ác, đó là trường hợp cuả những "con ruồi" trí thức đang vo ve bên bốn "đống rác" xú uế của cộng sản còn sót lại hôm nay gồm Việt Cộng; Trung Cộng; Bắc Hàn và Cuba. Đối với những người biết nhận xét, họ có thể hiểu và thông cảm phần nào cho lớp trí thức đang còn bị kẹt trong bộ máy man rợ của cộng sản tại bốn quốc gia nêu trên. Có thể họ vì an toàn cho tính mạng cá nhân, cho gia đình, vì cơm ăn áo mặc v.v nên đành ngậm miệng cúi đầu làm thân "trâu ngựa" cho chế độ. Nhưng bên cạnh đó, lại có những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v (không kể giới "nghệ sĩ") bằng cấp đầy mình đang sống ở những quốc gia không cộng sản đã cố tình bất chấp dư luận, mang "tài cao học rộng" của mình đến với chế độ cộng sản, nhất là những kẻ đó lại nói cùng một ngôn ngữ, có chung một huyết thống dân tộc tại nơi mình đến "kiếm ăn nhờ bằng cấp". Chẳng lẽ họ mù loà đến mức không thấy nỗi khổ đau của đồng bào mình ?
Trong phạm vi của bài biên khảo hôm nay, chúng tôi chỉ đề cập đến trường hợp Việt Nam, vì đảng cộng sản đang thống trị trên quốc gia này được chúng tôi xác định là một tổ chức tội phạm hung hiểm nhất, quỷ quyệt xảo trá nhất, vô học và tàn bạo nhất trong lịch sử loài người với những gì tồi tệ nhất mà thế giới cộng sản trước khi chết đã gom lại và dồn hết vào cho nó. Ngoài ra, chúng tôi cũng được biết đã từ lâu lắm cho tới tận hôm nay, 2024, cộng sản Việt Nam sở dĩ còn kéo dài được sự thống trị sắt máu là do có sự chống lưng giúp đỡ từ một nhóm "siêu quyền lực" đang giấu mặt và có nguồn gốc tại Âu Châu và Liên Bang Mỹ.
Để tìm hiểu sự nghịch lý về hiện tượng trí thức Việt Nam ở hải ngoại đang tiếp tay cho tội ác ngay trên quê hương mình, chúng tôi, những người từng là quân nhân Biệt Động Quân / Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, có một thời chiến đấu không khoan nhượng với cộng sản trên chiến trường và hôm nay vẫn tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút trên mặt trận văn hoá. Vì xuất thân là những người lính, chúng tôi chẳng mong gì có được những học vị cao sang như phần lớn giới học giả, trí thức, khoa bảng v.v trong cộng đồng người Việt lưu vong hiện nay. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng tìm đọc lại nhiều sách, báo, tài liệu v.v về nguồn gốc sự hình thành nên "triết thuyết" cộng sản, qua những gì được tham khảo chúng tôi mới biết rằng đồng bào mình nói chung, giới trí thức khoa bảng Việt Nam nói riêng đều hoàn toàn mù tịt về nguồn gốc ban đầu của cộng sản. Nếu có sự tìm hiểu về cộng sản từ giới trí thức, phần lớn các nghiên cứu của họ dù sâu rộng lắm cũng chỉ bắt đầu từ hai ông Karl H. Marx và Friedrich Angels trở về sau mà thôi. Đây là một thiếu sót lớn, và cũng từ khởi điểm này mà giới trí thức người Việt đang tiếp tay với cộng sản hôm nay thực sự bị che mắt về những mưu kế độc ác của cộng sản đối với trí thức.
Vì thiếu hiểu biết nên họ không biết rằng, bên cạnh những vị khoa bảng, học giả, trí thức v.v từ những ngày đầu hồn nhiên đem trái tim và kiến thức của mình đến với cộng sản (như đã viết ở phần trên), thì cũng có những kẻ vô lại, vô học, côn đồ, du thủ du thực v.v đi lạc đường vào vòng ảnh hưởng của cộng sản. Chính những thành phần này mới dễ bị tuyên truyền và nhồi sọ hơn thành phần có ăn học, và họ sẽ tuyệt đối trung thành với tổ chức khi đã có quyền lực ở trong tay. Và con số đảng viên thuộc thành phần hạ cấp đó luôn đông hơn số đảng viên được gọi là "trí thức".
Khi một đảng cộng sản còn hoạt động trong bóng tối, khởi thủy những kẻ thành lập tổ chức tự coi là những cái đầu của đảng, sau đó giới trí thức ngây thơ sẽ được chọn đưa ra ngoài công khai để thu hút công chúng bằng những bài diễn văn rực lửa. Cùng lúc đó trong bóng tối, thành phần côn đồ sẽ tung ra các hoạt động gây xáo trộn xã hội bằng đủ loại khủng bố, gây áp lực tâm lý và buộc những người yếu bóng viá phải chấp nhận đứng vào hàng ngũ của chúng. Giai đoạn này được coi như nhằm tạo ra hai bàn chân để đưa "cách mạng" đi tới mục đích sau cùng. Khi đã cướp được chính quyền thì thành phần đảng viên trí thức sẽ bị loại dần ra khỏi những vị trí, chức vụ quan trọng trong cơ cấu tổ chức đảng, tệ hại hơn có thể bị thanh trừng, tù đày, thủ tiêu v.v với cả ngàn lý do mà bọn vô lại ở chóp bu đưa ra. Sau đó là việc thành lập công an, mật vụ, tuyên- giáo v.v để theo dõi và trấn áp những bất mãn, chống đối từ trong nội bộ ra ngoài xã hội, gọi là an ninh (chính trị). Tiếp theo là hình thành nên lực lượng vũ trang (quân sự) để tăng thêm sức mạnh cho đảng và cũng để răn đe đối phương bên ngoài biên giới. Hai cấu trúc sau cùng được xem như hai cánh tay thép để bảo vệ sự tồn tại của đảng. Và luôn luôn nhớ rằng, chỉ có thành phần hạ cấp, vô học, tàn nhẫn, trung thành nhất mới lọt đươc vô nơi cao nhất trong đảng là "bộ chính trị". Còn lớp đảng viên tầm thường mới vào đảng, "quần chúng", trí thức v.v luôn bị "cái đầu" ở trên coi như hai bàn chân bên dưới, bọn vô lại ở chóp bu lợi dụng vào đó để đưa "đảng" đi tiếp trên con đường độc quyền thống trị mà thôi !
Xin thử hỏi những vị trí thức, khoa bảng người Việt ở hải ngoại lâu nay đang giao du với Việt Cộng:
-"Đối với lớp trí thức gốc đảng viên từng theo họ từ ngày lập đảng, hoặc được đào tạo ngay tại những ngôi trường do chúng lập ra, những kẻ đó còn bị chúng coi rẻ như vậy thì quý vị, những người có bằng cấp ở ngoại quốc và cũng chưa từng nếm mùi 'nội bộ' đảng thì họ khinh rẻ quý vị đến mức nào ?"
- "Bị coi khinh và nghi ngờ như vậy, làm sao thiện chí (nếu có) của quý vị thực sự giúp đươc nỗi thống khổ của đồng bào ?"
- "Quý vị nào biết cộng sản tàn độc đến mức chúng ngó lơ hết tất cả các khổ đau của xã hội, từ thiên tai, dịch bệnh, đói nghèo v.v. Vì sao chúng không quan tâm ? Bởi cộng sản biết rõ sẽ có quý vị lo giùm điều đó cho họ, vì tình cảm con người xuất thân những nơi dư ăn, dư mặc khó thể quay lưng trước thảm cảnh đó của đồng bào. Còn đảng cộng sản thì sao ? Xin đừng hỏi điều nhân nghĩa và đạo đức với một bọn vô lại, hạ cấp, vốn xuất thân từ cặn bã của xã hội và đang ở tột đỉnh của quyền lực! "
Đây là một đòn cân não mà Việt Cộng đã đánh trúng vào điểm yếu nhất của người Việt Nam lưu vong hiện nay trong vấn đề tình nghĩa, máu chảy ruột mềm. Bởi vậy bọn lưu manh mới nhởn nhơ tại vị, ngồi trên đầu cả một dân tộc và được những kẻ yếu lòng cho không mỗi năm cả chục tỹ đô la.
Những người nghiên cứu về Karl H. Marx; Friedrich Engels thường dành nhiều thời gian nhất để tìm hiểu về bộ sách đồ sộ là "Tư Bản Luận". Những ai càng chú tâm vào đó thì càng lún sâu vào âm mưu lừa bịp của một bọn lưu manh đã mướn Karl H. Marx viết ra bộ sách đó. Nội dung của nó đưọc sắp đặt rất công phu, cùng với những phân tích, con số, nhận xét rất hợp lý về nền kinh tế (nói chung) của "tư bản" vào thời kỳ mà giai đoạn "cách mạng kỹ nghệ" mới bộc phát. Trong thực tế câu trả lời đích thực về mục đích cuả bộ sách ấy là gì ? Xin lập lại là không có gì cả, chỉ là sự dàn dựng bằng một rừng chữ nghĩa rất uyên thâm, mục đích của nó là hớp hồn giới trí thức, làm cho họ phải say mê nghiên cứu và hy vọng đem áp dụng vào cuộc sống nhưng rồi....tất cả chỉ là ảo tưởng, là màn lừa bịp tinh vi nhất bằng sách vở.
Vậy ai là kẻ bỏ tiền ra mướn K. Marx ngồi viết nên "tác phẩm" lừa đảo đó ? Xin thưa. Đó là một hội kín có tên Hội Cộng Sản ( the Communist League), và cái hội cộng sản đó lại mới đổi tên từ một hội bí mật có tên là Hội Của Những Người Công Chính (the League of Just Men), chưa hết, cái hội "công chính" đó chỉ là một trong nhiều cái nhánh của ... một cành cây lớn hơn có tên là Hội Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League).
Vậy làm sao biết được "cái cây" đó ? Xin thưa. Chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi xa hơn, tìm về một con người, là đầu mối gây ra thảm họa cộng sản cho nhân loại. Nhân vật này đã viết ra các nền tảng ban đầu về cộng sản. Tất cả chỉ vì lòng hận thù đối với giáo hội Công Giáo, mà mục tiêu là Đức Giáo Hoàng. Con người này không ít thì nhiều cũng đã một thời làm điêu đứng cả toà thánh Vatican, và những bậc thầy của ông ta trước đó cũng gây tai tiếng khá nhiều cho giáo hội Công Giáo.
Để tìm hiểu tường tận hơn, chúng tôi sẽ đưa bạn đọc đi ngược thời gian đến năm 1540, là năm mà Đức Giáo Hoàng Paul Đệ III cho phép sự thành lập một dòng tu, nhưng ngài không ngờ, chính dòng tu này là đầu mối tạo ra mầm mống cộng sản gần 200 năm sau đó. Phải chăng đây là một thử thách đớn đau mà Thượng Đế dành cho giáo hội Công Giáo La Mã trước các quyền lực của ma quỷ đang có mặt khắp trần gian ?
Chúng tôi khi đưa ra bài biên khảo này, trước hết chỉ mong muốn giúp bạn đọc nói chung, giới trí thức thiếu trách nhiệm trước sự tồn vong của tổ quốc nói riêng, có thêm chút hiểu biết rõ ràng hơn về các mưu kế hèn hạ và nham hiểm của cộng sản, nhất là loại cộng sản cặn bã, rác rến như bọn vô lại đang chiếm đoạt quê hương chúng ta. Tuy nhiên, vì vấn đề tế nhị của bản biên khảo, nội dung có nói đến sự sa ngã của các tu sĩ trong một giai đoạn lịch sử, chúng tôi đã liên lạc và trình bày riêng với các vị đàn anh Biệt Động Quân để xin ý kiến, nhất là những vị Ki Tô hữu trong binh chủng. Quyết định sau cùng của các đàn anh là chấp nhận cho đăng bài biên khảo này trên diễn đàn Biệt Động Quân. Dù sao, chúng ta cũng không thể che giấu được sự thật của lịch sử, hơn nữa đây là vấn đề có liên đới đến công cuộc đấu tranh chung của chúng ta trước một quê hương đang còn bị ngã nghiêng vì cộng sản.
Chúng tôi mong rằng trong bạn đọc sẽ không có người lợi dụng các chi tiết, sự kiện v.v hay cắt xén nội dung của biên khảo này cho mục đích chia rẽ tôn giáo. Là một người Việt Nam, chúng ta đều biết hành động gây rẽ chia giữa các tôn giáo là một tội ác mà truyền thống đạo nghĩa của dân tộc không bao giờ chấp nhận. Quý vị có quyền trích dẫn cho mục đích học thuật, nghiên cứu hoặc sáng tác và xin ghi rõ nguồn trích dẫn.
Xin cảm tạ những ý kiến thiết thực, những tài liệu bổ xung đến từ nhiều đàn anh Biệt Động Quân để biên khảo này được hoàn tất.
Thay mặt nhóm biên soạn.
BĐQ Đỗ Như Quyên.
."Biện chứng pháp Mác xít là phương pháp làm cho một tên đần độn ăn nói như một nhà cực kỳ thông thái".... (.."The Marxian dialectics is a method which enable an idiot to sound extremely clever"... (Arthur Koestler (1905-1983), trích từ "The Invisible Writing", Second Volume..., 1932-1940). 236 Năm Trước Khi Tư Tưởng "Quốc Tế Cộng Sản" Ra Đời.
Ngày 27. 9. 1540 : Trước sự hoang mang của cộng đồng Ki Tô hữu khắp Âu Châu vì sự chỉ trích và nhạo báng của giới trí thức cùng những tu sĩ phản đạo, để cứu vãn danh dự của tòa thánh và phục hồi đức tin, Đức Giáo Hoàng Paul III (29.2.1468 - 10.11.1549) thuận cho phép một tu sĩ là ông Inigo Lopez de Onaz y Loyola (24.12.1491 - 31.7.1556) thành lập một dòng tu có danh xưng là Dòng Giêsu (Societas Jesu, dòng tu này còn được gọi bằng những tên khác trong tiếng Anh như Society of Jesus; Company of Jesus v.v. , riêng Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì chính thức gọi là Dòng Tên, (kể từ đoạn này, chúng tôi sẽ gọi là Dòng Tên như đã biết).
Ông Inigo Lopez de Onaz y Loyola còn được biết là Ignatus of Loyola; Pedro de Arrupe y Gondra, ông được phong thánh vào ngày 12.3.1622).
(DòngTên được lập ra theo sáng ý của ông Inigo.L.O. Loyola nhằm giữ uy tín cho giáo hội, cũng như tăng thêm kỷ cương giềng mối của giáo luật. Lúc bấy giờ có không ít các tu sĩ mang tư tưởng cấp tiến, họ muốn thoát ra khỏi nhiều giáo điều nghiêm khắc được thiết lập từ thời đầu- trung cổ mà tới lúc đó vẫn còn duy trì dù xã hội Âu Châu đã có nhiều thay đổi.
Một biến cố gây chấn động khắp trời Âu là sự kiện ông Christopher Columbus (1451-1506) tìm đến được một vùng đất mới (Mỹ Châu) ngày 21.10.1492 (có vài sách ghi sai thành ngày 12.10). Ông này quay trở lại Tây Ban Nha báo tin làm dân Âu Châu sửng sờ và dư luận nóng lên như cơn sốt.
Những giáo dân ngoan đạo chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện và chờ tòa thánh đưa ra câu trả lời cho câu hỏi nhức nhối : "Nếu thánh kinh đúng tuyệt đối thì "ai" là người đã tạo ra giống dân nơi vùng đất mới tìm được" ?
Năm 1517, một biến cố khác cũng làm tòa thánh Vatican điêu đứng khi linh mục Martin Luther (10.11.1483 - 18.2.1546) đã lập ra giáo phái Cải Cách (Tin Lành) sau khi đưa ra 95 điều để kết án giáo hội và các giáo hoàng vướng quá sâu vào trần tục.
Kết quả sau biến cố Martin Luther là sự rạn nứt, chia rẽ trầm trọng đã xảy ra ngay bên trong tòa thánh và nhiều xứ đạo cấp quốc gia đã vĩnh viễn quay lưng với giáo hội.
Năm 1527, triều đình đế quốc Tây Ban Nha ngang nhiên đưa một hải đội đến cướp phá vùng La Mã (Rome) và ngay cả đồi Vatican. Điều này nói lên uy tín của hội thánh đã giảm sút thật nhiều. Những vương triều trước kia vốn kính cẩn thần phục nay đã bắt đầu chỉ trích tòa thánh quá cứng ngắc, khư khư giữ những điều luật không còn hợp thời trước một xã hội có lắm sự đổi thay. Những sự kiện vừa nêu, là vài trong nhiều nguyên nhân đưa đến sự ra đời của Dòng Tên.
Xấp hồ sơ dày cộm về tổ chức, lề luật, hoạt động v.v của Dòng Tên do ông Inigo. L. O. Loyola biên soạn được trình lên giáo hoàng. Sau khi đọc và xét duyệt, Đức Giáo Hoàng Paul Đệ III chính thức cho đặt tên hồ sơ này bằng ba chữ la tinh là " Regimini Militantis Fcclesiae" (Chiến Quân Tu Sĩ Nhà Thờ).
Dòng Tên ngày đầu sáng lập chỉ có 60 tu sĩ, mặc áo chùng đen, có một đời sống tu hành rất khắc khổ, người thường khó thể chịu đựng nỗi. Tuy nhiên, các tu sĩ của Dòng Tên từ các vị khởi lập đến những vị sau này hầu hết đều là những người có một trình độ học thức rất cao, kiến thức uyên bác trong nhiều lĩnh vực, từ thần học, triết học, sử học cho tới thiên văn, toán học v.v. Nói gọn hơn, mổi tu sĩ của Dòng Tên là một học giả tinh thông nhiều vấn đề trong xã hội. Nhìn bên ngoài, những tu sĩ Dòng Tên cũng giống như bao tu sĩ của dòng tu khác. Chăm lo việc giữ gìn đạo hạnh, nghiên cứu kinh, sách, làm điều phước thiện v.v. Nhưng than ơi ! Tất cả mọi người đều lầm. Kể cả Giáo Hoàng Paul III ban đầu cũng bị lầm !
Ông Inigo L. O. Loyola cũng vì đức tin quá mãnh liệt, mang niềm tin muốn duy trì danh dự của hội thánh cũng quá nhiệt thành nên ông đã bí mật cho lập ra bên trong Dòng Tên một tổ chức tựa như hội kín có tên là Thông Tuệ (the Alumbrados, đồng nghĩa với Sáng Ngộ; Sáng Tuệ...tựa như sự được mở mắt trong tâm thức). Chính cái cơ cấu nhỏ bé và bí mật ấy mới là trái tim của Dòng Tên, là nơi nghiên cứu, soạn thảo, quyết định hết tất cả các hoạt động của dòng tu khổ hạnh này. Hơn nữa, không phải tất cả các tu sĩ của Dòng Tên đều biết đến sự tồn tại của nó. Chỉ trừ giáo hoàng, vài tu sĩ ưu tú thuộc hàng cao cấp nhất trong dòng, và vài người "có chí lớn" ngoài xã hội mới được phép biết mà thôi !
Chỉ trong vòng 10 năm sau ngày được lập ra, Dòng Tên đã phát triển thật nhanh như vệt dầu loang. Uy tín lẫn ảnh hưởng của dòng lan tỏa khắp chốn ở Âu Châu, và đồng thời cũng gây sóng gió tứ bề cùng với sự lớn mạnh của nó. Màu áo chùng đen của các tu sĩ Dòng Tên thấp thoáng khắp nơi, từ những trung tâm nuôi trẻ em mồ côi, kẻ tật nguyền, những cụ già cô độc v.v cho tới bên trong chốn cung đình của các vương triều tại Âu Châu. Tu sĩ DòngTên cũng xông pha đi theo những con tàu thám hiểm vượt đại dương đầy bất trắc, kể cả tàu buôn, chiến thuyền để tới các vùng đất xa xăm mà người dân Âu Châu chưa từng nghe nói đến... như vương quốc Đại Việt chẳng hạn, nơi thời Nhà Hậu Lê (1428-1788) ông Inigo L. O. Loyola đã ghé thăm vào năm 1553. Một tu sĩ khác của Dòng Tên cũng đến Đại Việt năm 1619 là ông Alexandre de Rhodes (1591-1660), ông tới vương quốc này gặp lúc các chúa Nguyễn (Nam), chúa Trịnh (Bắc) sắp đưa sông núi nước Nam vào 148 năm máu lửa (Nam-Bắc Phân Tranh Lần I, 1627-1775).
Tại Âu Châu, tu sĩ Dòng Tên đã thao túng quyền chính của nhiều vương triều. Họ theo dõi để tìm xem ông vua nào dám ương ngạnh với giáo hoàng, nếu tìm ra bằng cớ họ sẽ lập kế hoạch lật đổ ông vua "cứng đầu" đó, đưa lên ngai vàng những vị vua tỏ ra biết phục thiện với giáo hội.
Tu sĩ Dòng Tên bắt đầu đi vào con đường của sự cám dỗ, sa ngả khi họ làm luôn cả nghề đi buôn, kể cả buôn..lậu, cho vay tiền, mua bán đất đai, hối lộ quan chức, làm gián điệp, bắt người tra khảo v.v. Họ đã khởi sự gieo rắc một nỗi kinh hoàng, mối sợ hãi lan rộng khắp chốn của xã hội Âu Châu. Tiếng oán than, trách móc của dư luận bắt đầu vang vọng, dân chúng lén lút gọi tu sĩ Dòng Tên là "Jesuit" với nghĩa xấu xa. Sau cùng, các việc làm lộng hành đó cùng sự oán trách của dân chúng rồi cũng tràn ngập khắp lối của Rome. Trước khi tòa thánh Vatican thẳng tay vung lên lằn roi sắt để trừng phạt, các nước ở Âu Châu tự ý đưa ra các biện pháp để đối phó.
Kể từ tháng 4.1759 đến cuối năm 1761 : Tất cả các tu sĩ của Dòng Tên ở Bồ Đào Nha bị triều đình nước này ra lệnh lùng bắt. Nhà thờ, nhà ở, nhà phước, trường học v.v của dòng tu ấy đều bị đóng cửa hay tịch thu vĩnh viễn. Hải quân Bồ Đào Nha tập trung hơn 2.000 tu sĩ Dòng Tên, sau đó chở họ thẳng đến bờ biển nước Ý Đại Lợi rồi đuổi hết lên bờ.
Ngày 6.8.1762 : Triều đình Pháp tuyên bố : "Vì hạnh phúc và sự yên bình của nước Pháp. Yêu cầu (bắt buộc) tất cả tu sĩ Dòng Tên phải mau chóng rời khỏi lãnh thổ". Ngay sau đó, Pháp ra lệnh đóng cửa toàn bộ các cơ sở, bao gồm trường học của Dòng Tên, rồi cho đem hết những loại sách vở của họ ra đường và đốt cháy rụi. Tính từ năm 1762 đến 1764, có hơn 3.000 tu sĩ Dòng Tên trốn khỏi nước Pháp đi lánh nạn nơi khác.
Ngày 31.3.1767 : Tất cả các nơi làm việc hoặc ăn ở của Dòng Tên tại Tây Ban Nha đều bị triều đình đưa lính tới bao vây chặt chẽ. Toàn bộ cửa nẻo đều bị đóng kín và tu sĩ bị cấm bước ra ngoài. Nửa đêm ngày 2 rạng ngày 3.4.1767, toàn bộ các tu sĩ Dòng Tên khắp lãnh thổ Tây Ban Nha cũng như tại các thuộc địa của đế quốc này đều bị bắt giữ tại chỗ. Hải quân Tây Ban Nha đã huy động một hạm đội, chở tất cả hơn 6.000 tu sĩ Dòng Tên thẳng tới bờ biển Ý Đại Lợi rồi đuổi hết lên bờ và họ gọi hành động đó là : "Trả lại cho thượng đế món quà không nên có" ! Thảm thương thay ! Trong số đó có nhiều người bị chết vì đói, những tu sĩ già yếu chết vì bệnh hoặc không lết nổi do bị giam kín quá lâu dưới hầm tàu. Có nhiều tu sĩ mang thương tích nặng nề vì bị đánh đập bằng roi da, hoặc do bị đâm bằng mũi giáo của quan binh Tây Ban Nha. Các tu sĩ quần áo rách nát, máu me đầy người, nghiêng ngả xiêu vẹo dìu nhau bước lên những bãi cát nóng cháy hoặc các ghềnh đá sắc bén giữa tiếng la ó, chửi bới hay cười đùa đầy độc ác của quan binh trên tàu.
Những hình ảnh nêu trên chỉ là một trong hàng trăm thảm cảnh khác mà các tu sĩ của Dòng Tên phải gánh chịu. Họ còn bị đẩy hàng loạt xuống giữa biển khơi, bị trói chân, tay hay cột đá rồi ném xuống nước, bị chém đầu, treo cổ hoặc thiêu sống. Tu sĩ Dòng Tên đã bị chết trong đớn đau tức tưởi không những chỉ tại Châu Âu, mà còn ở các thuộc địa của bọn đế quốc nơi Phi Châu; Mỹ Châu. Họ còn bị truy sát ở Gia Nã Đại; Nhật Bản; Đại Hàn; Trung Hoa; Ấn Độ..và ngay cả trên quê hương Việt Nam của chúng ta. Nói tóm lại, ở đâu có dấu chân của các tu sĩ Dòng Tên thì ở đó đất cũng thấm máu của họ. Kẻ thù của dòng tu này đã độc ác đổ vấy lên đầu họ mọi thứ xấu xa, ti tiện nhất vì bị đụng chạm đến quyền lợi. Chúng sợ bị nhân loại khám phá ra những tội ác tày trời, những lối sống trụy lạc phía sau cánh cửa của những vương triều phong kiến sắp hết thời.
Ngày 2.2.1769 : Đức Giáo Hoàng Clement XIII (7.3.1693) qua đời. Trước khi các hồng y sắp bước vào phòng kín để bầu giáo hoàng mới thì các đại sứ tại Vatican của những đế quốc như Pháp; Tây Ban Nha; Bồ Đào Nha đã nói thẳng với các hồng y rằng : .."chúng tôi chỉ công nhận một giáo hoàng không dính dáng chi tới Dòng Tên"... Lời nói sỗ sàng ấy chỉ có mổi Hồng Y Lorenzo Ganganelli (31.10.1705-22.9.1774) gượng gạo tán thành. Kết quả sau cuộc bầu kín thỉ vị hồng y đó được bầu chọn và trở thành Giáo Hoàng Clement XIV.
Năm 1772 : Giáo Hoàng Clement XIV bắt đầu cho lần lượt đóng cửa các trường học của Dòng Tên. Sau đó đến những nhà thờ của dòng tu này cũng bị đóng cửa. Lệnh này chỉ áp dụng trên lãnh thổ Ý Đại Lợi mà thôi.
Ngày 21.7.1773 : Dòng Tên chính thức bị giải tán bởi một Giáo Lệnh (Dominus ac Redemtor) của Giáo Hoàng Clement XIV. Khi nghe tin này, các đế quốc như Pháp; Tây Ban Nha; Bồ Đào Nha; Áo mừng ra mặt nhưng cũng có ba đế quốc là Anh; Nga; Phổ (Prussia, sau là Đức) ra mặt chống lại giáo lệnh này. Cả ba nước chống lệnh giáo hoàng còn thách thức Vatican bằng cách tuyên bố mở rộng cửa biên giới, sẵn sàng đón nhận các tu sĩ Dòng Tên nào muốn đến sống ở nước họ.
Vậy là có hàng ngàn tu sĩ Dòng Tên đang bị xua đuổi lũ lượt kéo đến nương náu tại ba nước đó. Riêng những người không thể đi được vì bận bịu chăm sóc người nghèơ ở các bệnh viện (do họ lập nên), hoặc không nỡ bỏ rơi hàng chục ngàn trẻ em mồ côi sẽ bị bỏ đói v.v nên số tu sĩ này vẫn ở nguyên tại chỗ. Và để yên phận trước bọn quan lại ở địa phương, cũng như được duy trì công việc cứu người, họ lập ra một số hội mới. Những hội này tuy nhỏ và ít ồn ào hơn, nhưng dù sao cũng có nơi gặp mặt, tập trung cầu nguyện và chờ...phép lạ. Đó là các hội tiêu biểu như Hội Thánh Tâm Của Chúa Jesus (the Society of the Sacred Heart of Jesus); Hội Những Người Cha Của Đức Tin ( the Society of Fathers of the Faith); Hội Đức Tin Của Chúa Jesus ( the Society of the Faith of Jesus) v.v. Riêng ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, có rất nhiều hội nhỏ được lập ra vì đường đến Anh; Nga; Phổ hơi xa và nhiều tốn kém.
Hơn 41 năm sau, vào ngày 7.8.1814 Đức Giáo Hoàng Pius VII đã ký lệnh cho phép Dòng Tên được tái lập với đủ các quyền mà dòng tu này từng có trước kia. Khi hay tin sự hoạt động trở lại của Dòng Tên, sóng gió đã ầm ầm nổi lên nhiều nơi tại Âu Châu để phản đối và chỉ trích toà thánh Vatican tơi bời. Phần đông những kẻ chống lại quyết định này là các ông hoàng, bà chúa, lớp quý tộc, địa chủ giàu có và dĩ nhiên không thể thiếu các trí thức, triết gia, giáo sư thần học, linh mục, giám mục, chủ nhà băng, tài phiệt kỹ nghệ v.v. Số chống đối này tự xưng là "Người Bên Này Núi" (Cis-Montanes), tức phía Bắc dãy núi Alps. Còn phe ở phía Nam núi Alps thì bị họ gọi là "Kẻ Bên Kia Núi" (Ultra-Montanes) gồm các nước thường trung thành với toà thánh như Ý Đại Lợi; Hy Lạp; Nam Tư v.v.
Sau khi được cho hoạt động trở lại, các tu sĩ Dòng Tên liền xông xáo, hăng say hoạt động còn hơn cả trước kia. Thế là quyền lợi của vương quyền lại bị đụng chạm. Kẻ thù của Dòng Tên lại có cớ kết án Vatican đã cố tình che chở và dung túng "đứa con hư hỏng" của mình. Nhiều năm sau đó nữa, vài tu sĩ Dòng Tên lại gây thêm tai tiếng khi họ trực tiếp giúp đỡ cho các phòng trào cộng sản tại Châu Phi và Trung- Nam Châu Mỹ.
Trước những bằng cớ rành rành khó lòng chối cãi, ngày 28.2.1982, đích thân Giáo Hoàng John Paul II ( 18.5.1920-2.4.2005) phải công khai lên tiếng cảnh cáo các tu sĩ Dòng Tên nên tránh xa các hoạt động chính trị, nên tôn trọng truyền thống đạo lý của giáo hội Công Giáo. Nhưng đó là những chuyện sau này, chúng ta hãy trở lại vào thời điểm sau năm 1773).
Sự Thai Nghén Ban Đầu Của Cái Quái Thai Cộng Sản.
Ngày 1.5.1776: Một tu sĩ cũ của Dòng Tên, nguyên giáo sư dạy môn Giáo Luật (Canon Law) tại trường đại học Ingolstadt University ở tỉnh Bavaria thuộc đế quốc Phổ, ông Adam Weishaupt (7.2.1748- 18.11.1830) đã thành lập một hội kín có tên Sáng Tuệ (Illuminati, chữ này đồng nghĩa với chữ Alumbrados mà người sáng lập Dòng Tên là ông Inigo. L. O. Loyola trước kia đã dùng để lập một hột kín bên trong dòng tu đó). Hội kín Sáng Tuệ còn được biết dưới một tên khác là Toàn Bích (Perfectibilist, tuyệt hảo hoàn toàn, không tì vết, không khuyết điểm). Khi lập Hội Sáng Tuệ, ông này đã mang trong lòng một mối hận thù sâu thẳm đối với giáo hội Công Giáo nói chung, đối với những người chủ chăn của tòa thánh Vatican nói riêng, vì ông ta không thể tha thứ chuyện Giáo Hoàng Clement XIV ra lệnh giải tán Dòng Tên vào năm 1773. Hơn thế nữa, ông ta còn thề không đội trời chung với tất cả các triều đại vương quyền lúc đó, bởi đã dám coi các tu sĩ Dòng Tên như những kẻ thù. Để nói rõ lòng mình, ông Adam Weishaupt lấy bí danh Spartacus (?- 71 BC), là tên một người nô lệ làm nghề giác đấu (gladiator) từng bỏ trốn rồi mộ quân đánh với đế quốc La Mã gần 3 năm (từ 73 tới 71 trước lịch Tây).
Hội Sáng Tuệ có một bản cương lĩnh hoạt động rất mới lạ, phải nói là rất hấp dẫn nếu so với hàng trăm hội kín khác đang hoạt động tại Âu Châu vào lúc ấy. Vì vậy hội của ông đã mau chóng thu hút nhiều người. Hội viên (bí mật) tăng lên ào ào, nhiều nhất là giới quý tộc hết thời, tu sĩ bị đuổi khỏi nhà thờ, giáo sư, triết gia, khoa học gia, chủ nhà băng, kỹ nghệ gia v.v và kể cả bọn du thủ du thực, đâm thuê chém mướn, bọn cơ hội, bọn sẵn sàng đi ám sát, khủng bố nếu được trả tiền.
Cương lĩnh chính yếu của Hội Sáng Tuệ có 6 điểm quan trọng như sau :
(1): Lật đổ hết tất cả các triều đại quân chủ trên toàn cầu. Trấn áp hết các hình thức chính phủ nào khác nếu có trong tương lai (Vô chính phủ).
(2): Tước bỏ quyền làm chủ đất đai và những gì có trên mặt đất của người dân (Vô tài sản, chống tư hữu).
(3): Bỏ luôn quyền thừa kế gia tài (Vô đạo đức).
(4): Cấm tiệt lòng yêu thương quê hương đất nước của riêng mình, xóa bỏ những khái niệm về quốc gia, dân tộc (Vô tổ quốc).
(5): Thiết lập một nền giáo dục chung cho trẻ em (tuyên truyền. Vô văn hóa), dẹp luôn sự tôn kính trong gia đình, cấm hẳn vấn đề lễ lạc, cưới hỏi (Vô gia đình).
(6): Xóa bỏ hết tất cả các thứ tín ngưỡng, tôn giáo đang có trên thế giới (Vô tôn giáo).
Biểu tượng của hội kín Sáng Tuệ là hình tam giác không có đỉnh nhọn, thay vào điểm đỉnh đó là con mắt tỏa sáng, nghĩa như trên cao thấy hết, biết hết tất cả.
(xin xem hình đính kèm, chú ý nơi cái tháp đá, hội kín Sáng Tuệ đã vẽ ra biểu tượng này, về sau hội kín ở Mỹ đã công khai lấy đưa vào tờ giấy bạc).
Tháp có 13 tầng (xin bạn đọc lưu ý đến con số 13, cũng như con số 9) đếm từ dưới lên, chi tiết này cho biết rằng đó là 13 đẳng cấp trong nội bộ của hội kín Sáng Tuệ.
Nếu đếm số đá trong tháp thì tổng số là 72 viên (kết số của 9). Đáy tháp rộng, càng lên cao càng nhỏ lần có nghĩa hội viên cấp thấp càng đông thì nền tảng của tổ chức càng vững chắc và không thể thấy hoặc biết những gì ở cấp cao hơn bên trên, và hội viên ở cấp cao hơn tuy ít nhưng là đầu não, nhìn xuống thấy hết tất cả mọi sự.
Ngay phía trên tháp là hình một con mắt mở lớn nằm trong một hình tam giác đang tỏa sáng, có nghĩa lãnh đạo tối cao thông suốt hết mọi sự nhưng công việc vẫn chưa hoàn tất. Hàng đá dưới cùng của tháp khắc 9 chữ số La Mã gồm: MDCCLXXVI (là con số 1776, năm lập hội kín Sáng Tuệ, cũng là năm chúng lập ra nước Mỹ với 13 tiểu bang, sẽ nói kỹ hơn ở trang kế tiếp). Phía trên tháp là hai hàng chữ la tinh có tổng số 13 chữ cái: ANNUIT COEPTIS, có nhiều nghĩa như: người khởi đầu mọi sự, sự tuyên bố, sự ra đời, sự kết tụ dũng cảm (của phe nhóm, bè đảng v.v)...nhưng cách hiểu đúng nhất là "Tuyên Bố Sự Ra Đời". Vòng quanh dưới tháp có hàng chữ la tinh: NOVUS ORDO SECLORUM, Trật Tự Mới Của Thời Đại (dịch qua tiếng Anh thì có đúng 13 chữ cái là: New World Order, Trật Tự Mới Của Thế Giới). Bây giờ lại gom hết hai câu trên - dưới quanh cái tháp rồi dịch sang tiếng Anh sẽ có đúng 36 (9) chữ cái của câu: ANNOUNCING THE BIRTH OF THE NEW WORLD ORDER, Tuyên Bố Sự Ra Đời Của Trật Tự Mới Thế Giới . Dễ sợ chưa ! "Qua Mỹ - Qủy Ma" ..nó đã sắp đặt trước hết cả rồi ! Nhưng chưa hết đâu. Vẫn còn dài dài các mật mã trên hai mặt của tờ giấy bạc..nghĩa, bạc..tình đó (Xin tiết lộ thêm cho hai giới "Công-Nông" ở mấy nước "xã hội chủ nghĩa" biết thêm chuyện này: Các đảng cộng sản thường to mồm nói họ ăn mừng ngày lễ "Quốc Tế Lao Động" vào ngày 1 tháng 5. Thật ra chúng nó ăn mừng ngày sinh nhật "môn phái" chúng nó ra đời là hội kín Sáng Tuệ, ngày 1.5.1776 đó bà con ạ ! ).
Trong năm 1777: Ông Adam Weishaupt được Tổng Bộ hội kín Thợ Đá Tự Do (the Free Mason) ở thành phố Munich thuộc Phổ chính thức mời gia nhập, ông này được ưu ái trao ngay một vị trí rất cao trong hội kín này (chữ Free Mason còn được hiểu là Thợ Xây, Thợ Hồ Tự Do, nguồn gốc của hội xuất phát từ Ai Cập cách nay hơn 4.000 năm.
Gần 2.000 năm sau đó, đế quốc Hy lạp xâm chiếm Ai Cập rồi thừa hưởng trọn vẹn các bí mật của hội này. Sau cùng, đế quốc La Mã chiếm gọn hết và vẫn duy trì sự hoạt động bí mật của hội kín này cho tới hôm nay. Bởi vậy xin bạn đọc khắp năm châu đừng ngạc nhiên khi thấy các công thự của "chú phỉnh"..à quên..."chính phủ" Mỹ xây ở thủ đô họ đều giống y chang các kiến trúc cổ của đế quốc La Mã. Riêng hai chữ "tổng bộ""chi bộ", chúng tôi dịch từ chữ "grand lodge""lodge".
Kính thưa bạn đọc.
Để giúp cho quý vị mau chóng hiểu rõ hơn mục đích của bài biên khảo này. Chúng tôi tạm cắt ngang sự hoạt động tiếp ở các năm sau đó của hội kín Sáng Tuệ, tạm thời đưa bạn đọc vô ngay phần nói thêm các bí ẩn mà hội kín giấu trên tờ 1 đô la Mỹ. Qua phần này, các bạn sẽ thấy rõ hơn về chân tướng thật sự của "chính phủ" Mỹ, sẽ hiểu thấu đáo hơn về sự "khác nhau nhưng giống nhau" giữa quốc tế cộng sản (trước kia) và cộng sản quốc tế (hiện nay). Bên cạnh đó, ngưòi đọc cũng sẽ biết thêm phần nào "ai" mới là kẻ thực sự điều khiển chính trường quốc gia này. Thế sự đảo điên điên đảo, thấy vậy mà không phải vậy. Chúng tôi chỉ hy vọng vào sự nhận thức từ trái tim và khối óc của các bạn mà thôi.
Ngày 10.6.1782, Liên Bang Mỹ: Quốc hội nước này nhóm họp để chọn lựa và thông qua quyết định chọn quốc huy chính thức cho liên bang. Lợi dụng thời điểm này, có bốn người đề nghị nên chọn cái tháp và con mắt (của hội kín Sáng Tuệ) làm quốc huy phụ thứ hai. Bốn vị đó là các ông:
- John Adam (30.10.1735 - 4.7.1862), Đại Diện Ngoại Giao Liên Bang Mỹ tại Âu Châu (1778-1788, ông này trong bí mật là hội viên cao cấp của hội kín Thợ Đá Tự Do);
- Thomas Jefferson (13.4.1743 - 4.7.1826), cựu Thống Đốc tiểu bang Virginia (1779-1781, cũng thuộc hội Thợ Đá Tự Do);
- Benjamin Franklin (17.1.1706 - 17.4.1790), cựu Phó Tổng Quản Đốc Bưu Cục Thuộc Địa (thời còn Anh), Đại Diện Ngoại Giao Liên Bang Mỹ ở Âu Châu (1778-1780, hội Thợ Đá Tự Do);
- Alexander Hamilton (11.1.1757 - 12.7.1804), Đại Tá, Phụ Tá Tham Mưu cho Tổng Tư Lệnh Quân Đội Đại Lục (the Continental Army), hội Thợ Đá Tự Do (Tổng Tư Lịnh Quân Đội Đại Lục là ông George Washington (22.2.1732 - 14.12.1799), là một hội viên cao cấp của hội kín Thợ Đá Tự Do, sau thành tổng thống thứ nhất (1789 - 1797) của Liên Bang Mỹ).
Đại Quốc Huy Liên Bang Mỹ (the Great Seal of the United States of America) được "họa" ra bởi hai hội viên cao cấp của hội kín Thợ Đá Tự Do là ông Charles Thomson (29.11.1792 - 16.8.1824) và ông William Barton (11.4.1754 - 21.10.1817).
Ban đầu, quốc huy Mỹ là hình một chim Phượng Hoàng ngồi trên một cái tổ rực lửa. Ở phía trên đầu chim có 13 ngôi sao (đừng tưởng bở như họ nói là biểu tượng của 13 tiểu bang buổi đầu, lúc đó họ có thể chia đất lập ra 12, 14, hoặc 15 tiểu bang cũng được. Hà cớ chi lại cứ phải là 13 ? Thật ra con số 13 là con số "thiêng liêng" nhất của hai hội kín Sáng Tuệ và Thợ Đá Tự Do. Ở đâu có hai hội này hoạt động thì nơi đó sẽ có con số 13 xuất hiện, chúng tôi sẽ nói rõ thêm về con số này ở phần khác). Cái mỏ của chim Phượng Hoàng nêu trên ngậm một tua vải xòe ra hai bên, trên vải có hàng chữ la-tinh gồm 13 chữ cái ghi câu: E PLURIBUS UNUM (Một Trong Sự Nhiều hoặc Nhiều Trong Sự Một, nghĩa của nó là "dù trên thế giới có nhiều quốc gia, nhưng rồi tất cả sẽ quy tụ thành một quốc gia duy nhất trên thế giới, hay dù là một quốc gia duy nhất trên toàn cầu thì bên trong của nó vẫn có những quốc gia khác". Tức là quyền lực tuyệt đối sẽ được gom về một mối, về tay siêu hội kín, siêu quyền lực đó mà ! Đó là ước mơ mà đế quốc La Mã ngày xưa chưa làm được). Phía trước ngực của chim là một tấm khiên bằng sắt, nghĩa là sự che chắn, che đậy sự bí mật ở phía sau và bên trong (nội bộ), tấm khiên đó có 13 vạch nằm ngang nếu đếm luôn vạch bìa (xem hình chim trên tờ 1 đô la), phiá dưới có 7 vạch thẳng đứng màu trắng và 6 vạch có sọc nhỏ bên trong (6 + 7 = 13), và nếu đếm hết 3 vạch nhỏ hơn nằm trong 6 vạch thẳng đó thì sẽ có con số chung là 3 x 6 =18 (9).
Hai chân chim, một bên nắm 13 mũi tên, một bên nắm nhánh mọng (berry) có đúng 13 chiếc lá và 13 quả mọng nằm xen kẽ với nhau (tiếng lóng của dân Mỹ gọi tiền đô là "berry"), phần dưới của chim có 9 cái lông đuôi.
Ngày 15.9.1789: Quốc hội Mỹ thuận thông qua bản "hiến pháp". Trong dịp này họ cũng chấp nhận lấy luôn cái tháp với con mắt (của hội kín Sáng Tuệ) làm quốc huy phụ thứ hai. Tới năm 1841, họ vịn cớ rằng dân Mỹ cứ nhạo báng cái quốc huy của Mỹ nhìn giống con gà tây (turkey) đang bị nướng hơn là chim Phượng Hoàng, quốc hội lại họp rồi quyết định cho họa sĩ vẽ con chim ó thế hình con "gà tây" đó (thực ra chim ó, hay đại bàng chính là biểu tượng của đế quốc La Mã). Sau rốt, hình con chim ó được "họa" xong, đầu nó chỉ có một mắt và nhìn về phía không có trái tim (vô tâm, bất nhân, bất nghĩa và bội phản).
Năm 1934: Ông Henry Agard Wallace (7.10.1888 - 18.11.1965), nguyên hội viên cao cấp của hội kín Thợ Đá Tự Do kiêm...Bộ Trưởng Nông Nghiệp, "yêu cầu" Tổng Thống Franklin Delano Roosevelt (30.1.1882 - 12.4.1945, hội viên cao cấp Thợ Đá Tự Do) cho phép Bộ Trưởng Ngân Khố, ông Henry Morgenthau, Jr (11.5.1891 - 6.2.1967) được in cả hai cái quốc huy đó (của hội kín) vào tờ giấy 1 đô la ! Sau khi được tổng thống cho phép, ông bộ trưởng H. Morgenthau (cũng thuộc hội kín nốt) cho làm ngay... và dĩ nhiên cũng không quên đưa thêm "mật hiệu" của hội kín vào tờ giấy 1 đô như: Hai vòng tròn lớn của hai quốc huy, ở giữa ngoài rìa của hai cái có hai chuỗi hạt, mổi cái có đúng 13 hạt nằm ngang. Ở trên chính giữa tờ giấy có 12 chử cái: IN GOD WE TRUST, Chúng Ta Tin Nơi Thượng Đế, nhưng ngay dưới hàng chữ đó lại có chữ ONE (1) thật lớn, nghĩa rằng 12+1= là 13 đó bà con ạ (quả là buôn bán trời...có văn tự đàng hoàng) ! Ở phía dưới lại có 9 chữ cái khá lớn: ONE DOLLAR. Còn gì nữa ? Vẫn còn nhiều lắm ! Nếu ai chịu khó đếm hết tất cả những mẫu tự nằm trong hai quốc huy đó, sẽ đếm được 72 chữ, cũng là 9..nút (A N N U I T C OE P T I S N O V U S O R D O S E C L O R U M T H E G R E A T S E A L (hình cái tháp) E P L U R I B U S U N U M O F T H E U N I T E D S T A T E S (bên hình chim)....và nếu cố gắng tính luôn hàng chữ số La Mã dưới chân tháp, sẽ có tổng số mẫu tự là..81 chữ (9). Lật qua phía bên kia tờ 1 đô, nếu bỏ công đếm hết số lá và quả mọng nơi hai bìa và hai góc dưới hình ông George. W, sẽ có được con số 54 (9).
Ngay ở trên cùng, có hàng chữ thập thò ..lấp ló với 18 (9) chữ cái là: FEDERAL RESERVE NOTE, Biên Nhận Lưu Dụng Liên Bang, xin lập lại lần nữa: "Biên Nhận Lưu Dụng Liên Bang" (cũng có thể gọi là "Phiếu Tư Dụng Liên Bang"). Còn cái gọi là Federal Reserve mà có ai đó dịch rằng: "Qũy Dự Trữ Liên Bang" thì người đó học quá thuộc bài qua lối chơi chữ của ... hội kín rồi đó ! Vì lẽ Liên Bang Mỹ chẳng có cái qũy nào dự trữ tiền cả bởi hiến pháp nước Mỹ cấm chính phủ lập ngân hàng và làm chủ tiền bạc. Nếu có, tại sao chính quyền Mỹ không in luôn mấy chữ "money" hoặc "currency" lên tờ giấy bạc của họ mà lại ghi là "note" ? Thật ra, trong lịch sử nước Mỹ đã có người muốn chính phủ có tiền riêng để điều ổn kinh tế quốc gia. Nhưng người đó đã bị "siêu quyền lực" qua tay hội kín bắn chết ngay, đó là vị tổng thống thứ 16 của Liên Bang Mỹ là ông Abraham Lincoln (12.2.1809 - 15.4.1865). Những tờ giấy màu xanh mà ai cũng tưởng là tiền "tệ" (hại) của Mỹ thật ra nó có mặt "bất hợp pháp" vì vi hiến.
Ngày 23.12.1913, giới chủ ngân hàng (tức siêu tài phiệt, hội kín) sau nhiều cuộc họp bí mật, kể cả họp ngoài đảo, đã lợi dụng lúc hơn một nữa nghị sĩ, dân biểu đang nghỉ lễ cuối năm (giáng sinh), họ đã vận động phần còn lại cuả quốc hội (mà hầu hết là phe cuả họ) tổ chức hội họp và gấp rút ký thông qua Đạo Luật Lưu Dụng Liên Bang (Federal Reserve Act) vào ngày tháng nêu trên. Đạo luật ký kiểu "chạy tang" đó cho phép chính phủ được quyền nắm giữ của ngân hàng tư nhân một số VÀNG thế chân, và chấp thuận cho họ được quyền lập ra một hệ thống điều hành, kiểm soát vấn đề tài chánh quốc gia, hệ thống đó gồm toàn các "ngân hàng hội viên" (member banks) với nhau và chính phủ chớ dự vào. Nói trắng ra, vì có giữ vàng thế chân (do cái luật vi hiến nêu trên) cuả tư nhân, nên chính phủ mới cho in cái "giấy biên nhận" là có giữ vàng của họ nhưng không dám nói toạc ra vì vi hiến. Còn cái tờ giấy gọi là "note" đó, nó có giá trị lưu hành dưới sự bảo đảm của chính phủ. Ai có bao nhiêu cũng được, giữ bao lâu cũng được, muốn trao đổi (mua-bán) bất cứ cái gì cũng được nên mới gọi là "lưu dụng" hoặc "tư dụng" (reserve). Còn cái chữ "Federal" ăn có được in trên cái "biên lai giữ vàng" đó là do tài phiệt láu cá in vô nhằm mập mờ đánh lận con đen và nó chẳng có dính dáng chi tới Liên Bang Mỹ cả ! Xứ "tự do" phát biểu mà ! Ví dụ như ai đó có cái "mặt nạ", họ có quyền gọi đó là "Federal Mask" cũng không sao ! Bởi thế nên mới có chuyện ngược đời: Chính phủ cuả một nước "hùng cường" như Mỹ mà "nợ như chúa Chổm" với các ngân hàng tư).
Trở lại với hai đại quốc huy của Mỹ. Chúng tôi xin được nói rõ hơn về vấn đề này vì ngay từ đầu, những người thiết kế nên cấu trúc của chính phủ Mỹ đã cố tính nhắn gởi đến công chúng những thông điệp quan trọng, được sắp đặt có chủ đích trong hai quốc huy đó. Ngay trong ngày bản "Tuyên Ngôn Độc Lập" được công bố, 4.7.1776, Quốc Hội Đại Lục (Continental Congress) đã chỉ định một ủy ban gồm ba người chịu trách nhiệm việc chọn đại quốc huy của Mỹ, đó là các ông John Adams; Thomas Jefferson và Benjamin Franflin. Cả ba vị này đều là hội viên của hội kín Free Mason, đại quốc huy thứ nhất được họ đưa ra có khắc cảnh ông Moses dắt dân Do Thái vượt qua Biển Hồng (Hồng Hải) và đoàn quân Ai Cập đang chống chỏi trước sóng nước dâng cao. Vòng quanh quốc huy này có hàng chữ: "REBELLION TO TYRANTS IS OBEDIENCE TO GOD" (Chống Lại Bạo Chúa Là Làm Theo Lời Thượng Đế). Nhưng chỉ sáu năm sau, có lẽ thấy được sự lộ liễu quá đáng vì hình ảnh Do Thái nằm ngay trên quốc huy, quốc hội lại nhóm họp vào ngày 10. 6. 1782 để chọn mẫu quốc huy mới, tới ngày 20. 6. 1782 thì mới có quyết định cuối cùng như đã kể ở trên (cùng với sự chấp thuận quốc huy phụ thứ hai là hình tháp và con mắt của hội kín Sáng Tuệ). Tuy nhiên, những người đưa ra mẫu mới vẫn cố tình sắp đặt 13 ngôi sao trên đầu chim là hai hình tam giác đối nghịch . Nếu vạch những đường thẳng thì sẽ thấy hình một ngôi sao có sáu góc (ngôi sao David, trên cờ Do Thái ngày nay). Ngôi sao này còn được biết là dấu hiệu của một hội kín thờ Satan tức hội Sáng Tuệ. Sáu cạnh, sáu mặt phẳng, sáu chi tiết chính trong đại quốc huy (chim, bó tên, nhánh lá, tấm khiên, tua vải, hình tròn trên đầu chim) là sự nhấn mạnh đến ba con số 666, một con số mà các nhà tiên tri cho rằng thuộc về kẻ chống lại thượng đế trong cuộc chiến sắp đến giữa "thiện, ác và ngày tận thế".
Đọc tới đây có thể bạn đọc đã thấy rõ ai mới là người làm chủ nước Mỹ từ những ngày đầu lập quốc. Và qua đó cũng thấy được "bạo chúa" mà họ chống lại không phải là đế quốc Anh, mà Vatican mới là thế lực mà họ tuyên chiến. Thực tế cho thấy suốt chiều dài lịch sử của Liên Bang Mỹ, hầu hết các tổng thống đều theo giáo phái Cải Cách (tức đạo Tin Lành), duy nhất chỉ có một người theo đạo Thiên Chúa Giáo là Tổng Thống John F. Kennedy (29.5.1917 - 22.11.1963), và cuộc đời vị tổng thống này kết thúc ra sao bạn đọc cũng đã tỏ tường.
Nổi bật hơn hết trong số tổng thống Mỹ có liên đới đến nhiều hội kín nhất chính là vị tổng thống thứ 42, William Jefferson "Bill" Clinton (tên cúng cơm William Jefferson Blythe III, 19. 8. 1946). Ông này tham gia Ủy Hội Tam Điểm (the Trilateral Commission); Hội Đồng Về Các Quan Hệ Đối Ngoại (the Council on Foreign Relations, CFR) và hội kín Bilderbergers (hội này chưa ai biết được tên thật là gì, những người nghiên cứu tạm gọi Bilderbergers vì đó là tên một khách sạn ở Oosterbeek, Hoà Lan, nơi công chúng khám phá ra một cuộc họp bí mật của hội vào năm 1954. Vợ của "Bill" Clinton cũng là hội viên CFR và Bilderbergers). Ngoài ra bố con cựu tổng thống George H.W. Bush cũng thuộc các hội Tam Điểm và CFR, riêng ông con còn là là hội viên Dòng Hội Xương và Sọ (the Order of Skull and Bones). Riêng ở cấp bộ trưởng, đại sứ, giám đốc v.v thì từ các ông như Henry Cabot Lodge, Jr (5.7.1902 - 27.2.1985); Henry Alfred Kissinger; Robert Strange McNamara (9.6.1916 - 6.7. 2009) cho tới anh em nhà John Foster Dulles (25.2. 1888 - 25.5.1959); Allen Dulles (7.4.1893 - 29.1.1969); Dean David Rusk (9.2.1909 - 20.12.1994); Conein E. Lucien (29.11.1919 - 3.6.1998), anh em nhà Edward Rolan Noel Harriman (24.12.1895 - 16.2.1978); William Averell Harriman (15.11.1981 - 26.7.1986) v.v tất cả đều là hội viên của hội kín. Có tới 95% trong tổng số tổng thống Mỹ, 99,9% các bộ trưởng ngoại giao, quốc phòng, giám đốc CIA; FBI đều nằm trong hội kín.
Trong tổng số 56 người ký vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập (ngày 7.6.1776) thì 53 người là hội viên hội kín (một tài liệu khác cho biết chỉ có một người). Riêng về Vương Quốc Anh thì 100% những thủ tướng đều thuộc hội kín (Anh cũng là nơi đặt "tổng hành dinh" của hội kín toàn cầu). Ông Winston Leonard Spencer Churchill (30.11.1847 - 24.1.1965) là một hội viên hội kín thuộc hạng "gộc", là một trong vài người hiếm hoi được hội kín thời hiện đại tôn vinh nhiều nhất vì có công trong việc dàn dựng nên Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918); Đệ Nhị Thế Chiến (1939-1945); cuộc "cách mạng vô sản" ở Nga (1917); Chiến Tranh Đại Hàn (1950-1953) và Chiến Tranh Việt Nam (gồm hai giai đoạn, từ 1945 đến 1975). Vào ngày 8.2. 1920, tờ báo Illustrated Sunday Herald (ở Anh) cho đăng một bài viết của ông ta, trong đó có những lời lẽ như sau:..."From the days of Spartacus - (Adam) Weishaupt to those of Karl Marx; Trotsky.. this... world - wide conspiracy for the overthrow of civilization... has been steadily growing"... (tạm dịch: "Từ những ngày của Spartacus - (Adam) Weihaupt cho tới Karl Marx; Trotsky.. âm mưu... toàn cầu nhằm lật đổ (các nền) văn minh (nhân loại)... đang lớn mạnh một cách vững vàng"...).
Quả là có "nằm trong chăn mới biết chăn có rận", âm mưu này đã có và được sắp đặt từ thời đế quốc La Mã, mộng làm bá chủ toàn cầu của phương Tây. Vào ngày 23.9.1950, một nghị sĩ Mỹ là ông Joseph Raymond McCarthy (14.11.1908 - 2.5.1957) đã tố cáo trước quốc hội về âm mưu của ba "lãnh tụ" Nga; Anh; Mỹ tại Hội Nghị Yalta (từ 4.2. tới 11. 2. 1945, ở bán đảo Crimea của Ukraine). Trong hội nghị này, ba ông "Churchill; Stalin; Roosevelt" đã bí mật chia trước đất đai thế giới sau khi chiến tranh kết thúc: phần Đông - Âu Châu sẽ thuộc cộng sản Nga, phần Trung- Đông- Á Châu và Ấn Độ Dương giao cho Anh, toàn vùng Thái Bình Dương và Đông- Nam Á Châu sẽ thuộc về Mỹ. Ông nghị sĩ này còn kết án họ đã bí mật bàn thảo trước cho các cuộc chiến tranh sắp tới, nguyên văn: ..."Here (Yalta) was signed the death warrant of the young men who are dying today in the hills and valleys of Korea.... Here was signed the death warrant of the young men who will die tomorrow in the jungles of Indochina"... ( ..."Nơi đây (Yalta) đã ký giấy báo tử cho những người trai trẻ hôm nay đang gục ngã tại các ngọn đồi và thung lũng của Đại Hàn.....Nơi đây đã ký giấy báo tử cho những người trẻ khác mà ngày mai sẽ chết trong rừng sâu của vùng Đông Pháp"...).
Một nhân vật khác cũng được hội kín tôn vinh hết mực là vị tổng thống thứ 32 của Mỹ, ông Franklin Delano Roosevelt (30.1.1882 - 12.4.1945). Vào ngày 23.11.1933, ngay sau khi biết tin mình "được bầu" làm tổng thống, ông ta viết thơ cho một ông trùm hội kín từng làm đại tá, kiêm "cố vấn" cho ba đời tổng thống là ông Edward Mandell House (26.7.1858 - 28.3.1938, từng làm "cố vấn" cho tổng thống thứ 28 Woodrow Wilson (29.12.1856 - 3.2.1924), là người đã âm mưu với W. Churchill dàn dựng nên Thế Chiến 1 và "cách mạng vô sản" ở Nga). Tổng thống F. D. Roosevelt viết thư thế này:..."The real truth of the matter is: as you and I know, that a financial element in the large centers has owned the government ever since the days of Andrew Jackson"...("Sự thật rõ ràng của tình thế là, ông cũng biết như tôi, một cơ cấu tài chánh ở các trung tâm rộng lớn đã làm chủ chính phủ này kể từ thời Andrew Jackson"(15.3.1767 - 8.6.1845, vị tổng thống thứ 7). Khi Thế Chiến Thứ 2 vừa xảy ra, ông F.D. Roosevelt đã "phán" một câu làm dân Mỹ nổi da gà: ...."In politics, nothing happens by accident. If it happens, you can bet it was planned that way"..(Trong chính trị, chẳng có gì xảy ra ngẫu nhiên. Nếu nó xảy ra, bạn cứ tin chắc nó được sắp đặt như thế). Chưa hết, trong một lần khác ông ta "tuyên bố" một câu cũng làm dân Mỹ dựng tóc gáy: ..."I do not believe in communism any more than you do but there is nothing wrong with the communist in this country, several of the best friend I have got are communists" ("Tôi chẳng còn tin chủ nghĩa cộng sản cũng như bạn nhưng thấy không có gì sai với người cộng sản trên đất nước này (Mỹ), vài người bạn thân nhất mà tôi quen đều là những người cộng sản" (Hồ Sơ Lưu Quốc Hội ngày 22.9.1950, trang A 6832).
Kính thưa bạn đọc.
Nói tóm lại, tất cả những nhân vật (Âu và Mỹ) mà lâu nay dư luận cho là "xuất chúng", là "lỗi lạc", là "có công lớn đối với nhân loại" trong các lĩnh vực, chính trị, quân sự, ngoại giao, tài chánh v.v thật ra họ chẳng có gì gọi là tài giỏi, là anh hùng chi cả. Họ cũng chỉ là những người bình thường. Nếu có khác thì họ là những kẻ lọt vô các hội kín, được tổ chức đó đưa vào nắm giữ những chức vụ then chốt trong các chính phủ. Nhờ có chân trong, chân ngoài nên họ biết trước các kế hoạch mà hội kín (siêu quyền lực, nói chung) đã thiết kế và sẽ có những dự định như thế nào. Họ chỉ là người thừa hành, có quyết định hoặc tuyên bố này nọ nhờ đã biết trước và nhận chỉ thị phải nói, phải làm như kế hoạch mà hội kín đã hoạch định mà thôi (anh hùng tận là như vậy). Trong bóng tối họ dàn dựng nên các xáo trộn khắp năm châu, ngoài ánh sáng họ cử người của họ (khoác áo chính khách) đi dàn xếp "hoà bình" với mục đích có lợi nhất cho thế lực trong bóng tối.
Tiếc thay, thủ đoạn này của hội kín quá cao siêu nên nhân loại từ người nghèo khổ, thiếu học cho đến tầng lớp trí thức, khoa bảng, lãnh đạo tôn giáo v.v đều bị lầm dài dài nên xã hội cứ triền miên trong khổ loạn. Cho dù có người biết được sự thật, nếu nói ra thì sẽ gặp những cái chết bí ẩn, may mắn còn sống thì cuộc đời họ sẽ rất khốn đốn trong công ăn việc làm. Nhưng phần lớn trí thức, khoa bảng, học giả v.v lại không can đảm nói ra dù đã biết phần nào sự thật. Họ vì tiếc nuối công lao ăn học, vì danh vọng mời chào, vì quyền lợi vật chất cám dỗ, vì sợ chết hoặc phải sống trong lo âu nên họ đành chấp nhận tiếp tay với sự dữ, kéo dài sự sống no đủ cuả bản thân trên nỗi khổ đau chung của nhân loại. Trường hợp của hai nhân vật W. Churchill và F. Roosevelt cũng thế mà thôi, chẳng là "anh hùng, xuất chúng" gì hết ! Ông W. Churchill được hội kín đưa vào ghế thủ tướng nước Anh hai lần (1940 - 1945 và 1951 - 1955) cũng do kế hoạch "phát động chiến tranh và tái thiết sau chiến tranh" của hội kín. Ông F. Roosevelt cũng được họ xử dụng như vậy, được hội kín giữ yên trên ghế tổng thống hơn ba nhiệm kỳ (1933- 1945), lâu như vậy vì họ không muốn âm mưu cuả họ bị trắc trở. Kế hoạch đó là gì ?
(1) Là tàn phá tối đa Âu Châu và Á Châu già nua bằng bom đạn, sau này họ sẽ bỏ tiền ra xây dựng lại qua hình thức viện trợ, vay mượn v.v để buộc các quốc gia khốn khổ đó phải đi vào vòng ảnh hưởng của họ.
(2) Làm kiệt quệ ý chí quật cường cuả người dân thuộc các chế độ cộng sản sau này.
(3) Làm trì trệ, chậm lại tốc độ phản công của "đồng minh" để chờ cộng sản Nga chiếm đủ số đất đã phân chia, đồng thời gia tăng mức độ viện trợ kỹ thuật quân sự, khoa học cho Nga nhằm giúp nước cộng sản này có đủ điều kiện trở thành một cường quốc quân sự, biến thành một đối cực với Âu Mỹ, hội kín ở giữa sẽ thủ đắc tất cả vì các nước nhỏ sẽ cần sự "bảo vệ" của họ, nghĩa là chịu mua vũ khí và chấp nhận viện trợ có ràng buộc của họ.
Ngày 25.6.1942, hai "vĩ nhân" nói trên đã âm mưu với nhau khi hoãn lại kế hoạch đổ quân lên lục địa Âu Châu trong năm 1943 qua năm 1944, mục đích là chờ cộng sản Nga soạn xong bản kế hoạch về lâu dài sẽ cai trị vùng Đông- Âu Châu như thế nào. Sau ngày ông Charles Andre Joseph Marie de Gaulle (23.11.1890 - 9.11.1970) theo chân "đồng minh" tiến vào thủ đô Ba Lê ngày 26.8.1944, lực lượng quân sự thuộc Quân Đoàn 7 của Mỹ được lệnh phải "thong thả" tiến quân vào lãnh thổ Đức cũng như thủ đô Bá Linh, họ phải chờ để Hồng Quân Nga tiến vô trước cho đúng với kế hoạch mà hội kín đã vạch ra. Ở phiá Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 của Mỹ ( thiết giáp là chính), Trung Tướng George Smith Patton, Jr (11.11.1885 - 21.12.1945) cũng nhận được lệnh quái gở đó, nhưng ông vẫn phớt lờ và tung ra nhiều cánh quân thiết giáp tiến ào ạt với ý định chiếm toàn vùng Tiệp Khắc. Tuy nhiên lệnh từ cấp cao hơn buộc ông phải ngưng lại, nhường vùng đất đó cho quân Nga đến chiếm đóng ! Lệnh ấy được đưa xuống bởi hai hội viên cao cấp của hội kín, ....kiêm..Thống Tướng Tổng Tư Lịnh Quân Đội Đồng Minh là ông Dwight David Eisenhower (14.10.1890 - 28.3.1969) và ông George Catlett Marshall (31.12.1880 - 16.10.1959), Đại Tướng Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ở Âu Châu (người sau đó là Bộ Trưởng Ngoại Giao của Mỹ (1947-1949) rồi nắm toàn quyền kế hoạch tái thiết Âu Châu của hội kín. Chưa hết, để chắc ăn và kiếm lời nhiều hơn, hội kín đã trao ông ta chức Bộ Trưởng Quốc Phòng (1950-1951), tới năm 1953, tổ chức "ngụy văn hóa" của hội kín ở Thụy Điển còn trâng tráo tặng ông ta gỉải "Nobel Hoà Bình" (hệt như Henry A. Kissinger sau này).
Tin tức về lệnh nhường đất cho "đồng minh" Nga Sô đã gây một cú sốc và lắm bất bình cho quân đội Mỹ vào lúc đó. Hơn nữa, sự kiện này còn làm chấn động cả chính trường nước Mỹ nên sự vụ bị đem ra điều tra trước quốc hội. Trong tháng 7.1948, sau khi kết tội giới tướng lãnh cao cấp đã âm mưu tiếp tay với cộng sản trên chiến trường Âu Châu, nghị sĩ Joseph Raymond McCarthy đã nói một câu ngắn sau đây mà chúng tôi xin ghi lại nguyên văn để bạn đọc nhìn rõ hơn bộ mặt thật của hai nước Anh và Mỹ: .."We now come to what was without question the most significant decision of the war in Europe: The decision by Marshall to concentrate on France and leave the whole of Eastern Europe to the Red Armies"..(Chúng ta bây giờ đã tới chỗ chẳng cần đặt câu hỏi về quyết định trọng đại nhất của cuộc chiến tại Âu Châu.: Quyết định của (tướng) Marshall là nhằm tập trung vào nước Pháp và dành toàn vùng Đông Âu cho Đoàn Quân Đỏ"). Cả hai "vĩ nhân" tiêu biểu nêu trên cũng như những "tai to mặt lớn" lớn khác của chính trường Âu-Mỹ, phần đông là hội viên của các hội kín như Sáng Tuệ; Tam Điểm; Thợ Đá Tự Do; Xương và Sọ; Hội Đồng Về Các Quan Hệ Đối Ngoại- CFR v.v và v.v. Và cũng chính họ, trước khi Thế Chiến 2 chấm dứt, đã dàn dựng nên hai cuộc chiến thảm khốc trên quê hương Việt Nam chúng ta với sự thông đồng tiếp tay của Nguyễn Sinh Cung (198 ? - 2.9.1969, tức Nguyễn Tất Thành; Hồ Chí Minh sau này), kéo dài từ 1945 đến 1975 và tới nay 2012 vẫn chưa thực sự kết thúc (ông HCM cũng là hội viên Tam Điểm, chúng tôi sẽ nói thêm ở một trang khác).
Ngày 13.9.1945: Quân đội Anh đưa quân đến Sài Gòn để giải giới quân đội Nhật Bản (đã đầu hàng từ ngày 14.8.1945) theo quyết định của "Hội Nghị" Potsdam, tổ chức gần Bá Linh, Đức từ ngày 16.7. tới 2.8.1945, riêng miền Bắc thì trách nhiệm giải giới giao cho Quân Đội Trung Hoa Dân Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà "hội nghị" đó lại chọn quân đội Anh vào miền Nam bày trò "giải giới", dù ở xa tắp tận Ấn Độ. Lúc đó Mỹ có binh lực ở Phi Luật Tân, ở đảo Guam v.v là các nơi rất gần nhưng Mỹ phải tránh mặt vì đây là giai đoạn đầu của âm mưu ma quỷ. Họ đưa quân Anh đến đó chỉ với mục đích gây xáo trộn, tạo thêm căng thẳng, kích thích lòng cuồng nhiệt của người dân, giúp phe cộng sản của ông Hồ có điều kiện đẩy mạnh các hoạt động và chắc chắn dân chúng sẽ tham gia vào lực lượng cuả ông ta để hình thành dần dần một quân đội sau này. Lực lượng đó sẽ trở thành một đối trọng mà Pháp rồi Mỹ mới có cớ đem quân vào tham chiến. Lực lượng quân sự của Anh đến miền Nam- Việt Nam đông vào khoảng 26.000 người, phần lớn các chiến binh thuộc nhiều sắc dân của Ấn Độ, lính gốc người Anh chỉ có khoảng 1.400 tay súng. Lực lượng này gồm: Sư Đoàn 20 Bộ Binh; Thiết Đoàn 16 Thiết Vận Xa, hai phi đội máy bay khu trục và vận tải, ba khu trục hạm hạng trung v.v đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Douglas D. Gracey (1894 - 1964), một hội viên cao cấp của Thợ Đá Tự Do, Ủy Hội Tam Điểm thuộc Tổng Bộ Luân Đôn.
Ngày 17.9. 1945, lấy cớ rằng lực lượng giải giới cần có sự an ninh, cần hạn chế số vũ khí thất thoát vào tay dân và để dễ dàng hơn trong việc tập trung binh lính Nhật vào một chỗ, tướng D. D. Gracey ra lệnh cho dân chúng Sài Gòn phải giao nộp tất cả vũ khí cho lực lượng của ông ta. Vậy là làn sóng bất bình bắt đầu nổi lên.
Ngày 21.9.1945, nhận thấy dân chúng không chấp nhận lệnh này cũng như sự hỗn loạn bắt đầu xảy ra, viên tướng Anh này đã chọc giận thêm dân chúng khi trả tự do và trang bị vũ khí cho khoảng 200 tù binh Nhật, để họ tự do đi khắp Sài Gòn dán Bản Tuyên Cáo Số 1 của ông ta với những điều như sau: Thiết Quân Luật không những ở Sài Gòn mà còn trên toàn miền Nam- Việt Nam. Cấm dân chúng không được tự võ trang. Cấm không được mang vũ khí ngoài đường. Cấm tụ tập đông người tại những nơi công cộng v.v. Sự uất ức cuả dân chúng tăng cao thêm qua bản tuyên cáo này.
Ngày 22.9.1945, tướng D.D. Gracey lại châm thêm dầu vô lửa khi cho phát súng đạn vào tay khoảng 1.700. người dân Pháp ở Sài Gòn.
Ngày 23.9.1945, ông tướng này lại cho lệnh hơn 3.000 lính của ông ta, gần 2.000 dân Pháp có vũ khí, hơn 600 tù binh Nhật Bản được võ trang tỏa ra khắp Sài Gòn để tấn công, đập phá các văn phòng Ủy Ban Kháng Chiến (của dân lập ra, không phải của cán bộ cộng sản), đập nát những trạm gác do dân chúng dựng lên nhằm canh chừng sự trở lại của Pháp.
Ngày 26.9.1945, lúc 10 giờ tối, nhằm tăng thêm sự phẫn nộ của dân chúng, tướng D.D. Gracey cho thả thêm hơn 1.000 tù binh Nhật và phát súng đạn cho họ, những tù binh này được tăng cường cho lực lượng trước đó để cùng nhận lệnh tung ra một cuộc càn quét quy mô khắp đường phố Sài Gòn. Vậy là làn sóng cuồng nộ cuả dân chúng nổ bùng ra khi ước mơ được Độc Lập của dân tộc bị tước đoạt bởi chính "đồng minh". Người dân không còn sự chọn lựa nào khác bằng con đường chiến đấu....và tổ chức Việt Minh là nơi họ chấp nhận đứng vào hàng ngũ, rất ít người biết tổ chức đó đã bị cộng sản cướp quyền lãnh đạo. Chỉ thời gian ngắn sau đó, những người hiểu biết thì thấy được bàn tay cộng sản trong tổ chức Việt Minh nên đã thoái lui, nhưng đó là một con số rất nhỏ. Phần đông vẫn ở lại tiếp tục chiến đấu vì lòng yêu nước, và họ đã vô tình trở thành vật hy sinh lót đường cho "quốc tế cộng sản và cộng sản quốc tế" trong âm mưu gây chiến, thôn tính toàn lãnh thổ nước Việt Nam và toàn thế giới trong tương lai.
Nhìn lại các hành vi của viên tướng Douglas D. Gracey, chúng ta mới thấy sự vi phạm trắng trợn cuả ông này nói riêng, cuả hai chính phủ Anh và Mỹ nói chung, đối với cơ hội được Độc Lập cho Việt Nam trước cơn ác mộng xiềng xích thực dân của Pháp. Viên tướng này chỉ là người được ủy nhiệm đến để giải giới quân đội Nhật Bản. Ông ta chỉ nên làm công việc đó, còn những vấn đề khác xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam là thuộc quyền của người dân, ông ta không được phép xen vào....trừ khi đó là âm mưu, thủ đoạn cuả hội kín mà Anh và Mỹ là hai đầu sỏ dàn dựng nên tất cả. Xa tít tận thủ đô Đông Kinh cuả một nước Nhật bại trận, Tư Lệnh Đồng Minh ở Á Châu- Thái Bình Dương là Đại Tướng Douglas MacArthur (26.1.1880 - 5.4.1964) khi biết tin về những gì xảy ra ở Sài Gòn, ông đã lớn tiếng chửi thề và nói ra những lời nhận xét xác đáng trong tư cách của một người lính, nguyên văn: ..." If there is anything that makes my blood boil, it is to see our allies (English) in Indochina.. deploying Japanese troops to reconquer.. the people we promised to liberrate. It is the most ignoble kind of betrayal"..("Nếu có chuyện gì đó làm tôi phải sôi máu lên, là chuyện nhìn đồng minh của mình đã huy động lính Nhật đi chinh phục lại những người mà chúng ta đã hứa giải thoát họ. Đó là một loại phản bội hèn hạ nhất".., (The Viet Nam Experience, cuốn Passing the Torch, trang 17).
Hơn 18 năm sau, vào tháng 11.1963 hội kín lại qua tay chính phủ Mỹ sát hại Tổng Thống Ngô Đình Diệm (3.1.1901 - 2.11.1963) và ông Ngô Đình Nhu (7.10.1910 - 2.11.1963), cũng như làm lơ để ông Ngô Đình Cẩn ( 1912- 9.5.1964) bị đem ra xử bắn. Trước đó vào ngày 30.10.1963, lúc biết kế hoạch đảo chánh và giết luôn anh em ông N.Đ.Diệm của chính phủ Mỹ đã sẵn sàng qua sự trực tiếp giám sát cuả Đại Sứ Henry Cabot Lodge, Đại Tướng Paul D. Harkins (15.5.1904 - 21.8.1984), Tư Lệnh/ Bộ Tư Lệnh Yểm Trợ Quân Sự - Việt Nam (Military Assistance Command - Viet Nam, MAC-VN) đã gởi một công điện về cho Chủ Tịch Tham Mưu Liên Quân là Đại Tướng Maxwell Davenport Taylor ( 26.8.1901 - 19.4.1987), bức công điện đã có những lời lẽ trách móc như sau: ..."After all, rightly or wrongly, we have backed Diem for eight long hard years. To me it seems incongruous now to get him down, kick him around and get rid of him. The U.S has been his mother superior and father confessor since he's been in office and he has leaned on us heavily. Leaders of other under - developed countries will take a dim view of our assistance if they too were led to believe the same fate lies in store for them"...("Cuối cùng thì, dù đúng hay sai, chúng ta cũng đã giúp Diệm suốt tám năm dài đầy khó nhọc. Đối với tôi, thật chẳng có đạo nghĩa chút nào bởi bây giờ chúng ta đang hạ nhục ông ta, hành hạ đủ điều rồi bỏ rơi ông ấy. Nước Mỹ như là mẹ bề trên (lãnh đạo dòng nữ tu) và cha (linh mục) giải tội kể từ lúc ông ta đảm trách công việc và đã dựa vào chúng ta khá nhiều. Giới lãnh đạo các nước kém phát triển sẽ có cái nhìn đầy hắc ám ở sự giúp đỡ cuả chúng ta và tin rằng một cảnh ngộ như thế cũng sẽ xảy ra với họ"..(The Pentagon Papers, trang 221. Neil Sheehan; Hedrick Smith; E.W. Kenworthy. Fox Butterfield, Bantam Book, 1971).
Và còn những gì nữa cuả một đất nước Việt Nam khốn khổ đối những "đồng minh trong thế giới tự do" như Mỹ- Anh- Pháp v.v ? Lịch sử đã trả lời.
Đến đây chúng tôi xin ngưng phần này. Trước khi mời bạn đọc quay về thế kỷ thứ 18 để tìm nguồn gốc cái quái thai cộng sản, chúng tôi ghi thêm vài chi tiết cuả Hội Đồng Về Các Quan Hệ Đối Ngoại và việc ông Nguyễn Tất Thành (HCM) gia nhập Hội Tam Điểm tại Pháp.
Ngày 30.5.1919: Ủy Hội Tam Điểm Tổng Bộ Châu Âu (the Trilateral Commission, Europe Grand Lodge) tổ chức một cuộc họp bí mật trong khách sạn Majestic ở Ba Lê, Pháp. Cuộc họp này đi tới quyết định thành lập một tổ chức hoạt động ngoài công khai, tầm vóc quốc tế, có tên Viện Quốc Tế Sự Vụ (the Institute of International Affairs, IIA), đồng thời lập chi nhánh thứ nhất nằm tại Luân Đôn, nước Anh với tên Học Viện Hoàng Gia Quốc Tế Sự Vụ (the Royal Institute of International Affairs, RIIA).
Ngày 21.7.1921, hội Tam Điểm lập thêm chi nhánh thứ hai ở Nữu Ước, Mỹ, có tên Hội Đồng Về Các Quan Hệ Đối Ngoại (the Council on Foreign Relations, CFR). Chi nhánh ở Mỹ có một tờ báo mang tiếng nói thuộc loại "nặng ký" là tạp chí Đối Ngoại (Foreign Affairs Magazine, FAM). Điểm đặc biệt ở chỗ là hội viên của CFR ở Mỹ có cả tổng thống, bộ trưởng, giám đốc các cơ quan chính phủ v.v cho tới khoa học gia, kỹ nghệ gia, chủ nhân ngân hàng và lãnh vực truyền thông, báo chí, điện ảnh v.v.
Ngày 29.11.2011 tại Ba Lê, Pháp một "hội trắng đóng kín" (tenue blanche fermée) tổ chức một buổi họp tại trụ sở Grand Orient de France (GODF), gần khu Metro Cadet. Họ đã thuyết trình và chứng minh tài liệu liên quan việc ông Hồ Chí Minh từng gia nhập hội Tam Điểm. Thuyết trình viên cho biết Nguyễn Ái Quấc được "khai thị" (initié) vào ngày 14.6.1922, ở trụ sở cuả chi hội La Federation universelle, hệ phái GODF, số 94 Av de Sufferen. Tài liệu lưu trong văn khố là một văn thư do hội viên Tam Điểm Roger Boulanger giới thiệu thấy ghi như sau:
- Nom et Prénom (họ và tên): Nguyen Ai Quac .
- Lieu et Date de Naissance (nơi và ngày sanh): An Nam 15 février 1895 .
- Profession ou Qualité civile (nghề nghiệp / đặc tính dân sự): Retoucher Photographe dessinateur (sửa hình, chụp ảnh, họa sĩ).
- Adresse (địa chỉ): Impasse Compoint E.v 17e .
- Nom des FF Présentateurs (tên những huynh đệ giới thìệu): frère Boulanger Roger 2e .
Chúng ta trở lại ngày 1.5.1776.
"CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM LÀ AI ?: LÀ MỘT HỘI KÍN ĐÃ CHIẾM TRỌN MỘT QUỐC GIA" !
Kính thưa bạn đọc.
Xem lại 6 điểm chính trong bản cương lĩnh cuả hội kín Sáng Tuệ, chúng tôi cũng như bạn đọc, thấy ngay rằng đảng cộng sản ở Việt Nam gần như thực hiện đủ 6 điều này từ năm 1930 tới nay, 2012, và đang tiếp tục duy trì các hành động đó của một hội kín có từ thế kỷ thứ 18. Suy ra, lịch sử cũng thật công bằng vì song song với sự có mặt, tồn tại dai dẳng của cộng sản trên đất nước chúng ta thì cũng có tinh thần đối kháng cộng sản xuất hiện trong xã hội, tạo được một sức mạnh vô hình và chiến đấu bền bỉ từ năm 1930 đến hôm nay. Cộng Việt tuy lấn lướt gần một thế kỷ qua nhưng không còn hy vọng sẽ thắng được đối lực này.
Phiá những người chống cộng nói chung, dù đã đối đầu với cộng sản Việt Nam cũng khá lâu trên nhiều lãnh vực như văn hoá, chính trị tới quân sự, tôn giáo, nhân quyền v.v nhưng chưa bao giờ có được một lợi thế áp đảo hẳn thế lực ma quái đó. Tại sao ? Có thể vì quan niệm rằng .."người có chính nghĩa" thì phải hành động chính trực ngoài ánh sáng, công khai lập đoàn thể, hội họp, nói ra lý tưởng, kế hoạch, tổ chức nội bộ, địa chỉ v.v vì phải để công chúng biết nhằm "thu hút sự ủng hộ". Trái lại, cộng sản ở Việt Nam là một hội kín trá hình, nấp trong bóng tối dưới cái tên như một đảng chính trị nên họ thấy hết, biết hết các hội, đoàn hoạt động ngoài công khai. Bởi là hội kín, thu nhận "hội viên" dĩ nhiên phải kín đáo trước công luận nên các cuộc họp "hội viên", lý lịch cán bộ, sự đi lại hoạt động, công tác của đảng viên, an ninh quốc phòng, kinh tế, tài chánh quốc gia v.v hội kín này phải giữ bí mật. Người của đảng có thể len lỏi đi các nơi, có tai mắt khắp chốn, cấu kết với thế lực hội kín đa quốc gia, biết trước những đầu mối đe dọa nên họ luôn có kế hoạch đối phó v.v. Tổ chức một bộ máy hiểm hóc như vậy và vận hành trong bóng tối mới khống chế được toàn xã hội, mà trường hợp Việt Nam là một điển hình. Người ngoài tổ chức đừng mong chi lọt vào guồng máy nội bộ cuả hội kín để dòm ngó, phá hoại sự sống còn của một băng đảng lưu manh lạc đường vào lịch sử.
Tóm lại, chính sự khác biệt nhau trong phương cách tổ chức và hoạt động, giữa công khai và bí mật nên cộng sản ở Việt Nam luôn chiếm lợi thế trước những đổi thay cuả thời cuộc. Hơn thế nữa , những người Việt Nam từng chiến đấu hoặc sẽ tiếp tục đối đầu với cộng sản, từ người có nhiều kinh nghiệm chính trị tới kẻ có học thức cao v.v vẫn còn hiểu biết rất mơ hồ về hội kín ở Âu Châu. Vẫn tin rằng phương Tây, nơi các thể chế "dân chủ" với "tam quyền phân lập" được ra đời, là mẫu mực lý tưởng nhất về cấu trúc của những chính phủ pháp trị, công bằng và minh bạch... nhưng người Việt chống cộng lại không biết hầu hết các chính phủ ở Âu Châu, ở nước Mỹ đều được lập ra bởi những cá nhân hoạt động bí mật trong thế giới ...hội kín như Tam Điểm; Thợ Đá Tự Do; Sáng Tuệ v.v.
"Tam quyền phân lập", như nước Mỹ chẳng hạn, gồm Lập Pháp; Hành Pháp; Tư Pháp, cả ba đều vận hành độc lập, kiểm soát lẫn nhau nên không thể có lãnh tụ độc tài, phe nhóm độc quyền. Nhìn bên ngoài thì thấy rõ ràng như vậy nhưng bên trong thì không phải như vậy ! Hãy nhìn cho kỹ vào hình cái tháp (quốc huy thứ hai) sẽ thấy trong đó có tới hai hình tam giác chớ chẳng phải một. Cái lớn ở dưới không có đỉnh nhọn, nó bị cắt ngang thành hình "tam giác" có bốn góc ! Tách biệt ra hẳn ở trên cao lại có thêm một hình tam giác nhỏ hơn. Chính hình tam giác nhỏ trên đỉnh mới là nơi nắm hết quyền lực chính trị, quốc phòng, tài chánh, kinh tế Liên Bang Mỹ. Đặc biệt hơn dù nó tách ra khỏi cấu trúc (chính phủ) bên dưới nhưng vẫn thấy và kiểm soát tất. Đó là thông điệp mà hội Tam Điểm và Sáng Tuệ gởi gắm vào đó từ ngày đầu họ lập ra nước Mỹ, khó mà tin "tam quyền phân lập" ấy.
Cộng sản ở Việt Nam cũng có cấu trúc tổ chức hình tam giác như thế, vì lẽ hội kín Sáng Tuệ là cha đẻ của các đảng cộng sản. Họ cũng có ba góc cạnh căn bản bao bọc tất cả là Chính Trị; An Ninh; Quân Sự. An ninh (công an) và quân sự là hai yếu tố bảo vệ nền tảng cho đảng, từ dưới thấp nhất (xã hội) lên nơi cao nhất và bao bọc toàn khối (nội bộ). Chính trị ở chóp đỉnh là nơi kiểm soát hết tất cả, nhưng nó cũng tách biệt khỏi toàn khối và cấp dưới đừng mong biết gì về nó, đó là "bộ chính trị", nơi quy tụ những đảng viên trung thành nhất, hiểu biết rõ nhất về sự vận hành của đảng, những kẻ nhẫn tâm tàn ác nhất, về nhân cách, học vấn, kiến thức v.v là con số không ! Đó là một bọn vô lại có được quyền lực nhờ các biến loạn lịch sử và biết giết người không run tay.
Hôm nay những kẻ sát nhân đó cũng diện "com lê", cũng thắt "cà vạt" như ai... nhưng bản chất lưu manh, quỷ quyệt trong đầu họ vẫn còn nguyên như thời đi làm loạn. Nếu có ai mong rằng cộng sản ở Việt Nam sẽ thay đổi chính sách, cải cách chính trị, mở rộng tự do, dân chủ, nhân quyền v.v cũng như mơ tổng thống Mỹ là người Tàu, thủ tướng Tàu là người Nhật, giáo hoàng người Phi Châu. Những ai nuôi dự tính sẽ soạn kiến nghị, thư ngỏ này nọ để gởi cho cái đảng đó thì xin quý vị nên dành thời giờ "cầm đàn khải tai trâu" vẫn tốt hơn. Những ai đã hoặc sẽ đem kiến thức khoa học, kinh nghiệm nghề nghiệp cuả mình về nước hợp tác với cộng sản với hy vọng họ sẽ học hỏi, cải thiện xã hội, dân chúng được nhờ v.v xin các vị đó nên thôi làm chuyện "gởi vàng vào tay cướp"! Tất cả các niềm tin, nỗ lực nói trên đều vô ích vì không thực tế (ở đây chúng tôi không nói tới thành phần về nước hưởng thụ hay kiếm tiền nhờ bằng cấp).
Đối với thứ cộng sản rác rưởi, cặn bã như cộng sản ở Việt Nam, đừng mong chúng từ bỏ quyền lực, và cũng đừng mong rằng các "áp lực" quốc tế làm họ kiêng dè, tuân thủ các "luật lệ" về quyền dân sự. Hơn ai hết, nhóm chóp bu cộng sản biết rất rõ nền tảng, cấu trúc các chính quyền ở Âu Châu, Mỹ chỉ là một thứ xã hội chủ nghĩa "dễ thở" hơn, "dễ nhìn" hơn với lớp áo tư bản. Hơn thế nữa, tất cả đều cùng một lò mà ra như cộng Việt, cùng có chung một "sư tổ" là ông Adam Weishaupt nên dĩ nhiên phải chống lưng lẫn nhau, cùng chơi trò tung hứng bàn cờ chính trị trên sự thống khổ của nhân loại nói chung, của dân tộc Việt Nam nói riêng. Cộng sản trên đất nước chúng ta họ không sợ một 'chính phủ' nào trên thế gian này! Họ chỉ lo hai điều:
- Một là "tinh thần quật khởi trong tâm thức cuả người dân Việt Nam rất mãnh liệt, tuy bị đè nén nhưng vẫn còn đó". Sách sử còn nhắc nhở: mổi lúc dân tộc Việt Nam cùng đứng lên thì lớn mạnh khiến ngoại bang cũng phải chạy lùi. Nhưng họ thì không còn nơi nào để chạy.
- Điều lo thứ hai là: "tinh thần đó sẽ được đánh thức, mà người Việt ở hải ngoại là nguồn tác động chính". Họ thì không thể ra ngoài kiểm soát hết được (trừ phi chủ nhà đồng lõa).
Một Cái Nhìn Khái Quát Về Hội Kín ở Âu Châu Thời Trung Cổ.
Từ đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch đến cuối thế kỷ thứ 15, Âu Châu trải qua Thời Trung Cổ (Medieval Time, 5 AD - 16 AD) dưới sức mạnh của thần quyền là giáo hội Công Giáo La Mã (Roman Catholic Church). Thời này còn bị gọi là Thời Tăm Tối (Dark Age). Trong giai đoạn đó rất nhiều hội kín thành lập. Ban đầu là tín đồ cuả những đạo cổ xưa hơn như thờ mặt trăng, mặt trời, vũ trụ, lửa, đá v.v nhưng nay bị cấm. Họ tuy bị quan binh La Mã buộc phải cải đạo nhưng một số vẫn lén lút tụ hội, thực hiện các buổi lễ của tôn giáo mình trong bí mật. Kế đó là các sắc dân chống lại sự chiếm đóng của La Mã cũng lập hội kín. Rồi những người có kiến thức khoa học, lịch sử, thiên văn, triết lý v.v tùy theo lãnh vực mà lập hội kín để học hỏi, bàn luận những sai lầm của tòa thánh Vatican. Và lúc bấy giờ, ai bị bắt vì tham gia hội kín sẽ tử hình. Nhưng không vì thế mà dập tắt được "phong trào" hội kín, họ sống chui núp khắp nơi trong lãnh thổ đế quốc La Mã. Ngoài ra trước khi có hai đế quốc La Mã và Hy Lạp, đã có một hội kín ra đời ở Ai Cập hơn 2.000 năm trước Tây lịch, đó là hội Thợ Đá (the Mason, hội kín Tam Điểm xuất xứ từ hội này). Hội kín Thợ Đá là tổ chức đáng sợ, đáng nể nhất đối với hai đế quốc nêu trên vì hội viên toàn là những bộ óc uyên bác nhất, thông thái nhất cuả Ai Cập. Vì vậy có không ít giới quý tộc,trí thức, quân nhân La Mã cũng lén xin tham gia để mong được học hỏi các bí ẩn nằm trong ... hình tam giác ("kim tự tháp").
Đến đầu thế kỷ thứ 16 tới thứ 17 thì xã hội Âu Châu bắt đầu giai đoạn Phục Hưng (Renaissance Era, cuối Tk 15 đến 17 AD) mở đầu cho Thời Hiện Đại (Modern Time). Vào lúc này gìới trí thức, quý tộc, tu sĩ v.v như bừng tỉnh khi tìm học lại những giá trị văn hoá của hai nền văn minh La - Hy, từ kiến trúc, toán học, quân sự cho tới triết lý, thiên văn, sử thi, hội họa v.v. Giáo hội tuy nghiêm khắc và cứng rắn hơn, nhưng không thể cấm cản được hoàn toàn việc lén lút tự tìm hiểu, nghiên cứu cuả giáo dân trong xã hội. Quyền lực của tòa thánh Vatican bắt đầu suy giảm. Hội kín mọc ra như nấm, các quán ăn ở hầm đá, hầm rượu, kể cả gầm cầu, nhà kho v.v đêm đêm chật kín đủ hạng người cuả xã hội Âu Châu. Họ tụ tập bàn luận đủ thứ chuyện trên đời, kể cả đọc thơ, xướng hát. Có những người thay nhau đứng trên bục cao để tranh luận, hay nói lên ý tưởng mới mẻ cuả mình về xã hội, nhân văn, khoa học v.v hoặc táo bạo hơn là đọc những bài diễn văn bốc lửa để kết tội giới thượng lưu, quý tộc và "giáo triều" Vatican. Chính ở các nơi đó mà Châu Âu rồi sẽ có thêm những triết gia, khoa học gia và cả các nhà ... cách mạng !
Từ những năm trong 1650 tới giữa thế kỷ thứ 18 là Thời Khai Sáng (Age of Enlightenment, 17- 18 AD) rồi tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution, 1750- 1850). Những hội kín của nông nô, tá điền cũng được lập ra nhằm chống lại giới địa chủ quý tộc hoặc chủ đất tỉnh lẻ. Công nhân cuả thời kỹ nghệ mới khai sinh cũng thành lập hội kín để đối đầu với tầng lớp thượng lưu giàu có làm chủ nhà máy.
(Đọc tiếp Phần 2).
----------

Ý kiến đóng góp và bài vở xin gởi đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. - Cám ơn