QUỐC TẾ CỘNG SẢN và CỘNG SẢN QUỐC TẾ
(Phần 2)
(Phần 2)
Tác Giả : BĐQ Đỗ Như Quyên | Ngày đăng :2024-08-07 |
(Tiếp theo Phần 1)
Từ những năm trong 1650 tới giữa thế kỷ thứ 18 là Thời Khai Sáng (Age of Enlightenment, 17- 18 AD) rồi tới cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ (Industrial Revolution, 1750- 1850). Những hội kín của nông nô, tá điền cũng được lập ra nhằm chống lại giới địa chủ quý tộc hoặc chủ đất tỉnh lẻ. Công nhân cuả thời kỹ nghệ mới khai sinh cũng thành lập hội kín để đối đầu với tầng lớp thượng lưu giàu có làm chủ nhà máy.
Hội kín Sáng Tuệ ra đời vào lúc này, ngoài thiểu số trí thức khá giả nằm trên chóp đỉnh của hội, ba lực lượng chính mà họ nhắm vào để tuyên truyền, thu nạp là công nhân, nông dân và giới du côn, trộm cướp.
Giai đoạn này trong xã hội Âu Châu đã có rất nhiều hội kín, có đủ loại lý tưởng mà họ theo đuổi, đủ thứ phe phái và..hệ phái thoát ra từ hội gốc. Vì vậy trong thế giới ngầm cũng đã xảy ra một cuộc chiến tranh khốc liệt mà sử sách không nói tới là "Chiến Tranh Giữa Các Hội Kín" (Secret Societies War). Những hội kín có nguồn gốc xa xưa về vấn đề tín ngưỡng lần hồi bị đào thải. Các hội lập ra để chống lại giáo hội Công Giáo La Mã thì bị phân hoá thành nhiều hệ phái, hoặc bị lấn lướt và sáp nhập vào những hội kín ....mạnh tiền và bạo tay hơn. Mổi sáng bước ra đường, người dân Âu Châu thường phải bước qua những xác người bị giết chết bí ẩn bằng dao, bằng giây siết cổ, bao vải đen bao kín đầu v.v, chưa nói tới các cái chết vì bị đốt nhà, thuốc độc và thuốc nổ. Đó là những hình ảnh dễ nhìn thấy nhất trong cuộc chiến tranh-giành quyền lực của các hội kín. Quyền lực của tòa thánh Vatican bị loại hẳn ra khỏi các vương triều. Sân khấu chính trị ở Âu Châu nay các vai trò chính là những ông hoàng, bà chúa, quý tộc, trí thức và...hội kín.
Tuy nhiên, dù có sự tranh giành ảnh hưởng giữa các hội kín lan ra ngấm ngầm như một cơn dịch, có nhiều tổ chức bị truy diệt, bị xoá tên nhưng riêng một hội kín không ai có thể đụng tới được là hội Thợ Đá (the Mason), "hoàng đế" cuả tất cả các hội kín. Hội này cũng có nhiều hệ phái, kể cả Tam Điểm và một hệ phái ra đời tại Anh là hội kín Thợ Đá Tự Do (the Freemason), một thế lực lập ra Liên Bang Mỹ.
Tóm lại, Âu Châu từ thế kỷ thứ 5 tới cuối thế kỷ thứ 15 đã có nhiều hội kín ra đời vì áp lực đè nén xã hội cuả giáo hội Công Giáo. Kiến thức hiểu biết về cổ sử, nhân văn, khoa học v.v phần lớn đều nằm trong tay giới tu sĩ trung thành với giáo hội. Do đó giới trí thức, người có hiểu biết buộc phải thành lập hay gia nhập hội kín để thỏa mãn sự học hỏi, nghiên cứu riêng cho mình, họ không còn sợ bị cấm đoán và trừng phạt bởi các giáo luật cuả hội thánh.
Từ đầu thế kỷ thứ 16 kéo dài tới cuộc cách mạng kỹ nghệ (1750-1850), bên cạnh những xáo trộn cuả xã hội như dịch bệnh, chiến tranh, triều đại nào đó bị lật đổ v.v thì giới trí thức cũng tỏa sáng với những phát kiến mới mẻ nhất trong nhiều lãnh vực...mà người châm ngòi cho cuộc thoát ly trí tuệ ra khỏi ảnh hưởng giáo hội là nhà thám hiểm hàng hải Christopher Columbus (31.10.1451- 20.5.1506, gốc Ý Đại Lợi nhưng thần phục Tây Ban Nha). Sau đó là những nhân vật xuất chúng mà các tư tưởng, công trình cuả họ làm đổi thay sâu rộng xã hội loài người đến tận hôm nay. Tiêu biểu như Francis Bacon (22.1.1561 - 9.4.1626, triết gia người Anh); Galileo Galilei (15.2.1564- 8.1.1642, nhà thiên văn học, toán học, triết gia Ý Đại Lợi); René Descartes (31.3.1596- 11.2.1650, triết gia Pháp); Thomas Willis (27.1.1621- 11.11.1675, nhà khoa học Anh); Robert Boyle (25.1.1627- 31.12.1691, nhà khoa học, triết gia Anh); John Owen (1616 - 24.8.1683, giáo sư thần học Anh); Richard Lower (1631- 17.1.1691, nhà thiên nhiên học, bác sĩ Anh); John Locke (29.8.1632- 28.10.1704, triết gia Anh); Robert Hooke (28.7.1635- 3.3.1703, triết gia Anh); Isaac Newton (25.12.1643- 20.3.1727, nhà thiên văn, vật lý, toán học, thần học Anh); Francois Marie Arouet (có bút danh là Voltaire, 21.11.1694- 30.5.1778, triết gia Pháp); Charles- Louis de Secondat, baron de La Brede et de Montesquieu (18.1.1689- 10.2.1755, nhà tư tưởng, triết gia Pháp); Jean Jacques Rousseau (28.6.1712- 2.7.1778, triết gia Thụy Sĩ); Georg Wihelm Friedrich Hegel (27.8.1770- 14.11.1831, triết gia Đức); Immanuel Kant (22.4.1724- 12.2.1804, triết gia Đức); Adam Smith (5.6.1723- 17.7.1790, triết gia Tô Cách Lan); Charles Robert Darwin (12.2.1809- 19.4.1882, nhà thiên nhiên học Anh); Friedrich Wihelm Nietzsche (15.10.1844- 25.8.1900, triết gia Đức) v.v.
Những người nêu trên, dĩ nhiên họ cũng phải vào hội kín như bao trí thức cùng thời tại Âu Châu, nhưng phần lớn đã gia nhập vào hội Thợ Đá (the Mason). Hội Thợ Đá có nguồc gốc ở Ai Cập, len lõi vào Âu Châu hoạt động đã lâu đời và lạc mất đầu mối chốn xa xăm. Họ cũng không rõ lắm người xưa vì sao lập ra tổ chức này. Mãi tới năm 1717, khắp Âu Châu chỉ còn 4 phân bộ được coi là "già" nhất trong làng hội kín, họ đã tổ chức một cuộc họp tại Luân Đôn, nước Anh và bầu ra một Tổng Bộ, đổi tên thành Thợ Đá Tự Do (the Freemason). Sau đó tại mổi nước cũng lập ra một tổng bộ, nhưng hệ thống quyền lực cuà hội này đều nằm ở nước Anh. Hội viên cuả nó là giới hoàng gia, quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ v.v chiếm đa số. Tính tới nay, 2012, khắp thế giới có hơn 7 triệu hội viên Thợ Đá Tự Do, nước Mỹ chiếm gần 4 triệu. Toàn cầu họ có hơn 40.000 phân bộ và 200 tổng bộ. Tuy có hơn 7 triệu hội viên nhưng chỉ có khoảng 600 người mới biết các bí mật về hội kín đó).
Hội kín Sáng Tuệ do ông Adam Weishaupt lập ra ngày 1.5.1776 ở vùng Baravia thuộc Phổ (Đức), là vào giai đoạn máy móc kỹ nghệ mới được khai sinh tại Âu Châu. Như đã trình bày sơ qua ở phần đầu, cũng vì mang lòng oán hận về chuyện Dòng Tên bị bức tử vào ngày 21.7.1773 bởi Đức Giáo Hoàng Clement XIV, ông ta lập hội kín này với mục đích trả thù xã hội. Với tham vọng lật đổ, đảo lộn tất cả những nền móng truyền thống cũ, từ thần quyền đến thế quyền, và thiết lập một trật tự mới mà mơ ước lớn nhất của ông là con người phải tuyệt đối được tự do. Vì thế ông đưa ra bản cương lĩnh với 6 điểm chính được coi là mới mẻ, hấp dẫn và táo bạo nhất trong thế giới hội kín vào lúc đó.
Chúng ta thử xem lại 6 điểm này của hội Sáng Tuệ :
(1): Lật đổ hết tất cả các triều đại quân chủ trên toàn cầu. Trấn áp hết các hình thức chính phủ nào khác nếu có trong tương lai (Vô chính phủ).
(2): Tước bỏ quyền làm chủ đất đai và những gì có trên mặt đất của người dân (Vô tài sản, chống tư hữu).
(3): Bỏ luôn quyền thừa kế gia tài (Vô đạo đức).
(4): Cấm tiệt lòng yêu thương quê hương đất nước của riêng mình, xoá bỏ những khái niệm về quốc gia, dân tộc (Vô tổ quốc).
(5): Thiết lập một nền giáo dục chung cho trẻ em (Vô văn hoá, tuyên truyền). Dẹp luôn sự tôn kính trong gia đình, cấm hẳn vấn đề lễ lạc, cưới hỏi (Vô gia đình).
(6): Xoá bỏ hết tất cả các thứ tìn ngưỡng, tôn giáo đang có trên thế giới (Vô tôn giáo).
Đọc xong 6 điều này, chúng ta thấy đảng cộng sản ở Việt Nam hiện giờ vẫn còn làm rất giỏi bài học đó của "đại sư tổ", người tạo ra cái quái thai cộng sản cách đây 236 năm !
"Dân ngu, nước khổ. Thời như vậy ?
Người sáng, đất vui. Thế mới hay" !
(Trộm).
Người sáng, đất vui. Thế mới hay" !
(Trộm).
===
Con người Âu Châu "sơ khai", sau giấc ngủ dài cả ngàn năm dưới bóng đêm của thế quyền và thần quyền, khi thức tỉnh (Phục Hưng) và nhận chân ra sự thật (Khai Sáng) họ chẳng còn chi để mất thì chuyện tổ quốc, gia đình, đạo đức, văn hoá, chính phủ, tài sản có mất cũng không sao ! Mọi thứ sẽ là của chung cho những ai cùng sống trên quả đất này. Lý tưởng quá ! Vậy là người ta xin vô hội Sáng Tuệ khá đông từ những ngày đầu. Lễ tuyên thệ nhập hội tổ chức trong bí mật với các nghi thức rất trịnh trọng. Những người gia nhập buổi đầu là giới chủ nhân kỹ nghệ, chủ ngân hàng, luật sư, trí thức v.v Họ mau chóng trở thành nhóm chóp đỉnh trong hội (cái đầu). Nhưng đọc kỹ lại 6 điều trên thì thấy toàn là chuyện khó làm đối với người giàu sang và có học. Muốn thực hiện được "lý tưởng" đó, chỉ có cách duy nhất là không ra mặt công khai, bỏ tiền ra thuê mướn hoặc kết nạp người nhẹ dạ, kẻ nghèo khổ, giới côn đồ vô lại, bọn trộm cắp lưu manh v.v và đưa họ vào các kế hoạch đi tạo biến loạn như đốt trường, phá chợ, ném thuốc nổ, ám sát viên chức, khiêu khích nhà cầm quyền, biểu tình, đình công, xúi nông dân phá huỷ nông sản, nổi loạn v.v. Một khi phiá công quyền ra tay đàn áp, sẽ là cái cớ để hội kín Sáng Tuệ kêu gọi một cuộc tổng nổi dậy hoặc một cuộc cách mạng.
Các thành phần vừa kể sẽ là nền tảng (hai chân), là động lực vận hành chính cho tổ chức mổi khi đi làm loạn. Tầng hạ cấp đó hội Sáng Tuệ cần rất đông nhưng cũng sẽ đào thải rất nhiều vì họ chỉ là lớp lót đường. Chỉ có một con số rất nhỏ trong tầng đáy đó mới được đưa lên cấp cao hơn, nếu kẻ đó có những tính cách đặc biệt khác người, nhất là phải trung thành và kín miệng. Hầu hết các cơ cấu quan trọng nhất trong hội đều lọt vào tay nhóm quyền lực ở chóp đỉnh. Các vị trí quan trọng thấp hơn cũng được giao cho tay chân tin cậy, người thân cuả nhóm ở trên cao.
Lúc bấy giờ ở những nước như Nga; Phổ; Pháp; Anh; Tây Ban Nha; Ý Đại Lợi v.v có khá nhểu nhà máy, khu kỹ nghệ .. phun khói mịt mù. Các khu phố, xóm nhà lụp xụp tồi tàn cũng mọc lên gần đó, nơi những người thợ thở trong bụi khói cùng với bệnh tật, trộm cướp, gái mãi dâm lui tới thường xuyên. Giới nông dân bỏ ruộng đồng dồn về thành phố kiếm việc làm, không có việc thì lang thang phiêu bạt, gặp gì làm nấy hoặc túng quá cũng làm liều, kể cả được mang danh là đi làm ...cách mạng. Những cuộc đời bất hạnh đó, là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào nhất cho các hội kín. Là nơi những tâm hồn mộc mạc, ít học, thiếu thốn rất dễ bị thu hút bởi các lý luận về nhân sinh, cuộc sống và lý tưởng ...cách mạng !
Con đường cách mạng lối đó cũng chính là con đường mà anh Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) đã đi làm ...cách mạng. Thế rồi ông chết đi, nhưng để lại trên quê hương Việt Nam một băng đảng hội kín với vô số những tội ác ngập đầu. Những kẻ sống bằng bạo lực, cướp chủ quyền đất nước cuả dân tộc Việt Nam nhưng mạo xưng là đi làm cách mạng, là giải phóng quê hương !?
Kính mời bạn đọc trở lại phần nói về hội Sáng Tuệ.
Giữa tháng 7.1785: Một hội viên Sáng Tuệ bị sét đánh chết lúc trên đường đi tới vùng Silesia, tỉnh Bavaria thuộc Phổ (Bắc- Tiệp Khắc, Tây Nam- Ba Lan ngày nay). Nhà chức trách địa phương cho khám xác nạn nhân, họ tìm được một bức thư quan trọng giấu trong người. Đây là một bức thư tối mật mà hội Sáng Tuệ gởi đến các phân bộ chuẩn bị cho ngày "tổng nổi loạn", do tổng bộ tổ chức nhiều nơi ở Bavaria. Chính quyền liền báo động trong toàn tỉnh. Họ tung ra nhiều cuộc lùng bắt hội viên Sáng Tuệ suốt 14 tháng. Ngay cả thủ lãnh, ông Adam Weishaupt cũng không chạy thoát.
Năm 1786: Hàng trăm hội viên cao cấp của Sáng Tuệ bị đưa ra toà Bavaria xét xử. Hầu hết đều bị kết tội âm mưu gây bạo loạn, phản nghịch với bản án là tử hình, trong đó có cả ông thủ lãnh. Sau khi các bản án được công bố, các hội viên cũ của Dòng Tên, giới quý tộc, chủ ngân hàng, kỹ nghệ đã ráo riết vận động ân xá cho ông Adam.Weishaupt nên bản án được đổi thành trục xuất, đuổi ra khỏi Bavaria. Ông ta chọn Thụy Sĩ, nơi lúc ấy được coi là "thủ đô" cuả hội kín, những hội có "máu mặt" nhất Âu Châu. Ở Thụy Sĩ ông Adam.W được coi là thượng khách cuả giới giàu có, quý tộc và cả những mục sư theo đạo Cải Cách đang nghiến răng thề sống chết với Vatican. Ông cũng được các trường đại học mời thuyết giảng về ý tưởng toàn cầu hoá với một chính phủ duy nhất cho loài người, một quân đội duy nhất, một ngân hàng độc nhất, xoá bỏ thuyết quốc gia cục bộ, phá vỡ biên giới giữa các nước, dẹp hết tôn giáo v.v.
Năm 1789: Tổng Bộ Thợ Đá (the Mason) Anh thành lập ở Trung Hoa một Phân Bộ Tam Điểm gọi là Hội Tam Hoàng, có liên quan mật thiết với chuà Thiếu Lâm. Mục đích lập phân bộ này là tạo biến động để gây thêm khó khăn cho triều đình Mãn Thanh.
Sau vụ toan làm loạn bị đổ bể ở Bavaria đế quốc Phổ năm 1785, hội kín Sáng Tuệ được sự chú ý cuả giới chủ nhân kỹ nghệ tại Âu Châu mà Thụy Sĩ là chốn họ gặp gỡ, nơi ông Adam Weishaupt sống lưu vong. Lần này, Tổng Bộ Trung Ương- Sáng Tuệ (the Illuminati - Grand Central Lodge) hành động cẩn thận hơn, vì mục tiêu sắp tới sẽ là một triều đại "yếu ớt" ở Âu Châu. Và họ đã chọn nước Pháp để làm thí nghiệm lần đầu cho tư tưởng "liên tiếp gây bạo loạn sẽ cướp được chính quyền" ! (Tư tưởng này vào lúc đó lại thích ứng với tầng lớp công, nông nghèo khổ đang muốn nổi loạn, nó đã thành một "phong trào" có chiều hướng lây lan khắp Âu Châu. Về sau, Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đã dựa vào ý tưởng đó để soạn nên một cuốn "binh thư" gọi là "Chiến Lược Chiến Tranh Cách Mạng", ông Nguyễn Tất Thành (HCM), học viên cuả Trường Đại Học Công Nhân Phương Đông là người học rất thuộc lòng cuốn "binh thư" đó)
Trong tháng 5.1789: hội Sáng Tuệ bắt đầu tung ra vài cuộc tập trung người đi biểu tình và đốt phá ở thủ đô Ba Lê, Pháp. Trong lúc này, triều đình vua Louis XVI (23.8.1754 - 21.1.1793, lên ngôi 1774, thuộc giòng tộc Bourbon) phải lo đối phó với giới trí thức và nhà giàu, họ đòi hỏi về quyền dân sự cuả người dân Pháp mà họ là "đại diện" !
Ngày 14.7.1789: hàng ngàn người do hội Sáng Tuệ xúi giục khích động, rầm rộ kéo tới nhà tù Bastille ở thủ đô Pháp với cuốc, xẻng, cào cỏ, gậy gộc, dao, búa...súng và thuốc nổ. Họ tấn công và chiếm được nơi đây, chém đầu viên sĩ quan chỉ huy và giải thoát tù nhân, mở màn cho "Cuộc Cách Mạng Pháp" ( the French Revolution 1789 - 1799. Vua Louis XVI tuy vẫn được tại vị và chấp nhận nhiều đòi hỏi cuả phe "cách mạng", nhưng trước áp lực của họ ngày càng tăng nên năm 1791 ông bỏ trốn và bị bắt đưa về ngục thất tại Ba Lê. Ngày 20.1.1793, vua Louis XVI bị "cách mạng" xử tội chết, ông bước lên máy chém ngày hôm sau (21.1) mà đoạn đầu đài được dựng ngay giữa đường phố thủ đô nước Pháp).
Ngay sau khi cuộc "cách mạng" đẫm máu đó thành công, một trong các lãnh tụ của biến cố này nhưng không thuộc hội kín Sáng Tuệ, ông Jean Pierre Louis de la Roche du Maine Marquis de Luchet (1740 - 1792) .. đã cho phổ biến một bản tin trong hội riêng của mình, do ông ta viết để báo động với hội viên nội bộ: ..."Cuộc cách mạng của chúng ta từ đầu đã bị dàn dựng trong bí mật bởi hội kín Sáng Tuệ. Nay cuộc cách mạng ấy đã bị họ sang đoạt và đang thao túng. Hội kín này là một tổ chức ghê gớm hơn những gì người ta biết về nó. Châu Âu không phải mục tiêu cuả Sáng Tuệ..mà toàn thế giới ! Vũ khí chính của nó là tư tưởng cuả Adam Weishaupt, họ còn được trang bị súng, thuốc nổ, ám sát, bắt cóc, tống tiền và các kế hoạch xúi nông dân, thợ thuyền nổi loạn cho tới khi nhà cầm quyền sụp đổ. Những kẻ đứng đầu hội kín Sáng Tuệ gồm các quý tộc giàu có, chủ nhà băng, kỹ nghệ v.v ... là lớp người cả đời chưa từng đổ mồ hôi để đổi chén cơm, manh áo"... (bản văn này chỉ luân lưu trong nội bộ một hội kín, giới "công, nông"... nghèo và dốt không hề biết họ bị "cách mạng" lợi dụng).
Ngày 7.8.1814: Đức Giáo Hoàng Pius VII (1740 - 1823) ban một Giáo Lệnh cho phép Dòng Tên hoạt động trở lại, cũng như được trả đầy đủ các lề luật riêng đã có trước đó cuả dòng tu này. Lúc biết tin, khắp Âu Châu xôn xao rồi sóng gió nổi lên, mạnh miệng nhất là quý tộc, nhà giàu và khoa bảng đã kết án toà thánh Vatican cố tình dung dưỡng "đưá con hư hỏng" của mình. Những quốc gia Tây- Bắc Âu Châu tự nhận mình là người "Bên Này- Núi" (Cis- Montanes, dãy núi Alps), họ gọi các nước thường trung thành với tòa thánh ở Đông- Nam Âu Châu là kẻ "Bên Kia- Núi" (Ultra- Montanes). Xin xem lại phần cuối cuả Ngày 21.7. 1773 ở đầu bài).
SỰ RA ĐỜI CUẢ QUÁI VẬT QUỐC TẾ CỘNG SẢN.
"Các vĩ nhân gần như luôn là những kẻ xấu" ("Great men are almost always bad men").
" Quyền lực dẫn tới sự tha hoá và quyền lực tuyệt đối là thối nát tuyệt đối" ("Power tends to corrupt and absolute power corrupts absolutely").
(John Emerich Edward Dallberg- Acton, 10.1.1834- 19.6. 1902, còn được biết là (Sir) Lord- John Acton, một sử gia và chính trị gia người Anh).
Trong năm 1836: Một chàng sinh viên 18 tuổi lúc đang học ở trường Đại Học Bá Linh, đã được nhận vào Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ (the Doctor Club), một hội kín tổ chức trong các trường đại học để tìm những người có những ý tưởng nổi bật, táo bạo v.v. Họ đã tìm được ông Karl Heinrich Marx (5.5.1818- 14.3.1883, tên thật trong tiếng Do Thái là Moses Mordecai Marx Levy).
Năm 1841: Karl H. Marx được một hội viên cao cấp của Câu Lạc Bộ Tiến Sĩ giới thiệu với Hội Cuả Sự Công Chính (the League of the Just, còn được biết dưới tên khác là the League of Just Men, Hội Những Người Công Chính, là một hệ phái vòng ngoài cuả hội kín Dân Ba Lê Ngoài Pháp Luật (the Parisian Outlaws League), và cái hội vòng ngoài "vô pháp luật" này cũng chỉ là một lớp vỏ bên ngoài cuả hội Sáng Tuệ. Người giới thiệu K.H. Marx làm quen hội kín đó là ông Moses (Moshe) Hess, 21.1.1812- 6.4. 1875, một triết gia Do Thái và cũng là người giữ một vai trò quan trọng trong việc đảo ngược các luận điểm cuả triết gia G.W.F Hegel, từ "tinh thần" (yếu tố con người) là yếu tố chủ đạo cuả lich sử biến thành "vật chất là yếu tố chủ đạo". Ông ta nhận xét về K. H. Marx như sau: ..."Tiến Sĩ Marx, đó là tên một thần tượng cuả tôi, người còn rất trẻ nhưng sẽ cho đám chính trị và tôn giáo thời trung cổ nếm mùi cái chết cuả họ"... ( "Dr. Marx, that is the name of my idol, is still a very young man who will give medieval religion and politics their death blow".., cuốn The Portable Karl Marx, trang 22, tác giả Eugene Kamenka, xb 1983). Sau này một nhà phân tích tâm lý và tâm thần học gốc Thụy Sĩ là Carl Gustav Jung (26.7. 1875- 6.6.1961) đã nói về K. H Marx như sau: ..."Marx còn chắc chắn sẽ đuổi thượng đế ra khỏi thiên đường của ổng, và kể cả sẽ kiện ông ta"...("Marx will surely chase god from his heaven, and will even sue him"...( trang 144, cuốn Mystery 666, Don E. Stanton, xb 1977). (Xem đến đây, bạn đọc sẽ không còn thấy khó hiểu vì sao một hội kín mẹ luôn lập ra các hội con ở vòng ngoài, bí mật hoặc công khai. Có làm như vậy mới vưà che dấu được đầu não chính, vưà càng dễ bịp được nhiều người, dễ qua mặt công luận cũng như nhà cầm quyền sở tại. Cộng sản ở Việt Nam cũng tổ chức hệt như vậy từ ngày họ mới hoạt động trên đất nưóc này, cũng lập ra nhiều hội bình phong bên ngoài để phân tán, làm suy yếu những tổ chức không cộng sản, vưà gạt gẫm thêm nhiều người nhẹ dạ đút đầu vô rọ).
Năm 1843: Karl H. Marx tới Ba Lê, Pháp để học thêm môn kinh tế. Tại đây ông ta làm quen và kết bạn với ông Friedrich Engels (28.11.1820- 5.8.1895, công dân Anh gốc Đức-Do Thái, một kỹ nghệ gia, triết gia, nhà khoa học xã hội. Hơn thế nữa, ông F. Engels còn là hội viên cao cấp của hội kín Thợ Hồ Tự Do (the Freemason) và là Ủy Viên Trung Ương của Ủy Hội Tam Điểm (the Trilateral Commission) mà cả hai Tổng Bộ Trung Ương (Central Grand- Lodge) cuả hai hội kín này đểu đặt tại Anh. Ông F. Engels thực ra đã được hội kín sắp đặt để làm quen với K.H. Marx. Qua đó họ có thể tác động, khuyến khích K.H. Marx thăng hoa thêm trí tuệ, chịu ngồi xuống viết ra những lý thuyết gian dối mà hội kín đang âm mưu lường gạt loài người. Và để giúp K.H. Marx được yên tâm nghiên cứu và "sáng tác", thông qua ông F. Engels, hội kín cung cấp bạc tiền để ông này đủ sống một cách tương đối nhưng không có tiền dư. Đây là nguyên nhân làm cho K.H. Marx phải bị lệ thuộc vào hội kín ở Anh vì ông thường bị thiếu hụt tiền để trang trải cho cuộc sống. Từ một chàng trai trẻ 18 tuổi đời, có một bộ óc thông minh, chịu khó học hỏi, nghiên cứu v.v nhưng do thiếu kinh nghiệm xã hội, ít từng trải cuộc đời nên bị rơi vào cái bẫy của hội kín do lớp quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ giàu có ở Anh bày ra. Kết quả là hậu thế sau này, tới nay cũng còn bị mắc lừa vì cứ nguyền ruả ông K.H. Marx là cha đẻ cuả tai họa cộng sản, nhân loại không thể thấy thủ phạm chính vì đã bị che mắt rất tinh vi).
Đầu năm 1844: K.H. Marx rời nước Pháp theo ông F. Engels qua Anh sống trong hai năm ở nhà ông này để "học hỏi" thêm (gia thế ông F. Engels thuộc lớp giàu có, cha mẹ từ Đức sang Anh lập nghiệp, lúc đó họ đang làm chủ một nhà máy kéo sợi bông vải ở Lancashire).
Năm 1846: "Hội Của Sự Công Chính" đổi tên thành Hội Cộng Sản (the Communist League) và mở "đại hội" lần thứ nhất. Nhân dịp này hội cũng "chính thức" nhận hai ông F. Engels và K. H. Marx làm hội viên. Vậy là một trang sử đẫm máu của loài người sắp được diễn ra mà triều đình nước Anh là thủ phạm chính, khi họ qua tay giới quý tộc, chủ nhân kỹ nghệ, ngân hàng v.v dàn dựng một học thuyết lừa bịp nấp dưới cái tên "chủ nghĩa xã hội" hoặc gọi nôm na là "cộng sản" (cộng hết tài sản cuả loài người vào tay một chính quyền duy nhất).
Năm 1847: Hội Cộng Sản mở "đại hội" lần thứ hai ở Luân Đôn. Hai ông K. H. Marx và F. Engels được giao trách nhiệm viết bản cương lĩnh hành động cho Hội Cộng Sản. Hai người phải viết theo tài liệu cuả hội và chịu sự hướng dẫn cũng như giám sát cuả Ủy Ban Trung Ương. Ngoài ra Hội Cộng Sản cũng đưa ra thời hạn biên soạn, họ khuyến cáo hai người phải hoàn tất bản cương lĩnh trước ngày 1. 2. 1848 (sở dĩ có chuyện thúc hối như vậy vì lúc đó hội kín Sáng Tuệ đã lập xong một kế hoạch "tổng nổi loạn" khắp Âu Châu, do các hội con ở vòng ngoài như cộng sản, tam điểm, thợ đá v.v ở từng địa phương cùng phát động sau ngày 1. 2. 1848. Những nơi họ tổ chức xúi dân nổi loạn gồm có: Bender-Thụy Sĩ ngày 1. 3, Vienna-Áo ngày 12. 3, Parma- Ý ngày 13. 3, Venice- Ý ngày 22. 3, Luân Đôn- Anh ngày 10. 4, nhiều nơi ở Tây Ban Nha ngày 7. 5, Naples- Ý ngày 15. 5, đặc biệt ở Pháp ngày 23. 2 để châm ngòi cho cách mạng Pháp lần thứ ba hay còn gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Hai" (February Revolution, 23. 2. 1848- 2. 12. 1848), trước đó cũng đã xảy ra cuộc cách mạng lần thứ hai trong năm 1830, gọi là "Cuộc Cách Mạng Tháng Bảy" (July Revolution). Về mặt tổng thể, âm mưu nổi loạn cuả các hội cộng sản đã diễn ra đúng như kế hoạch. Tuy nhiên họ đã bị thất bại nặng nề vì chính quyền các nơi vẫn còn đủ sức mạnh để đè bẹp những cuộc bạo loạn. Trở lại chuyện biên soạn bản cương lĩnh mà hai ngưòi nêu trên nhận trách nhiệm trước Hội Cộng Sản. Thực ra hai ông không cần phải suy nghĩ nhiều lắm về nội dung cần phải viết . Cái gọi là "tài liệu" mà Ủy Ban Trung Ương trao cho họ chính là bản cương lĩnh với 6 điểm hành động cuả hội kín Sáng Tuệ, do người sáng lập là ông Adam Weishaupt công bố ngày 1. 5. 1776. Vì thế, hai "danh nhân" lừng lẫy cuả cộng sản là F. Engels và K. H. Marx chỉ việc ngồi xuống sửa lại văn phong, thuật ngữ cuả bản cương lĩnh đó cho hợp với thời đại, và thêm vào bốn điều nữa mà Hội Cộng Sản đã chỉ thị.
Ngày 1. 2. 1848: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản bằng tiếng Đức (das Manifest der Kommunistichen Pertei) được công bố khắp Âu Châu, vài ngày sau bản tiếng Anh (the Manifesto of the Communist Party) cũng công bố và cả hai bản đều không đề tên tác giả (đã gọi là viết mướn thì làm sao để tên người viết được chớ). Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản gồm có 10 điểm chính như sau:
(1): Bỏ quyền làm chủ đất đai và đưa tất cả các loại đất vào mục đích công cộng.
(2): Đánh thuế (hoặc sẽ thực hiện thêm) nặng vào các lợi tức thu nhập.
(3): Đánh thuế vào quyền thừa hưởng gia tài.
(4): Tịch thu hết tài sản cuả di dân và phản loạn.
(5): Tập trung hết các nguồn tín dụng tài chánh cuả quốc gia vào tay chính phủ, và chỉ có "nhà nước" mới được quyền giữ toàn bộ tổng sản lượng quốc gia.
(6): Đặt hết vấn đề giao thông như hàng hải, đường bộ và những lãnh vực truyền thông như báo chí, bưu điện, sách, in ấn, xuất bản v.v vào dưới sự kiểm soát cuả chính phủ.
(7): Sự hoạt động cuả các nhà máy và dụng cụ sản xuất phải do "nhà nước" quản lý. Đưa nông nghiệp vào đất bỏ không và cách khai thác đất phải thuộc một kế hoạch chung.
(8): Bình đẳng trách nhiệm cho tất cả những người lao động. Thiết lập một đội ngũ công nhân cho nền kỹ nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
(9): Phối hợp giữa nông nghiệp và công nghiệp. Từ từ xoá bỏ sự ngăn cách giữa quốc gia và đô thị bằng sự phân bố dân số đồng đều hơn.
(10): Lập nền giáo dục miễn phí cho trẻ em với hệ thống trường công lập. Cấm dùng trẻ em lao động trong các nhà máy như hiện tại (1848). Phối hợp giữa giáo dục và kỹ nghệ sản xuất.
(Hội cộng sản, tuy là con đẻ của hội kín Sáng Tuệ, nhưng từ năm 1776 tới 1848 cũng đã hơn 70 năm. Trong thời gian đó xã hội Âu Châu đã có lắm đổi thay, kể cả dân trí nơi thành thị và nhận thức ở nông thôn cuả người dân, nói chung không còn quá "ngu" như trước. Sự thật này buộc cộng sản phải sửa lại 6 điểm hành động cuả "sư tổ" Adam Weishaupt. Nếu cứ khư khư giữ các điểm như "lật đổ hết các loại chính phủ", "tận diệt hết tôn giáo", "phá nát những nền tảng đạo lý gia đình", "cấm yêu tổ quốc" v.v thì nó quá trắng trợn, khó hấp dẫn được dư luận nên về lâu dài cộng sản khó thực hiện được mục đích. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ từng điểm trong bản tuyên ngôn nói trên cuả cộng sản, người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó cái hồn ý tưởng cuả ông Adam Weishaupt. Nghĩa là lợi dụng sự ngây thơ cuả kẻ có học, lợi dụng sự ngu dốt cuả người nghèo khổ, ít học (công nông), lợi dụng sự hung hăng, tàn bạo cuả bọn côn đồ lang bạt để tạo nên một sức mạnh rồi gây biến loạn xã hội để cướp đoạt chính quyền. Hơn thế nữa, 10 điểm trong bản tuyên ngôn đó là bản đưa ra ngoài công khai. Trong thực tế, 6 điều chính cuả hội kín Sáng Tuệ vẫn được các đảng cộng sản áp dụng trong bí mật. Cộng sản ở Việt Nam là một ví dụ đìển hình cuả cơn dịch bệnh là hội kín đi cướp quyền lực, nay đang còn giấu mặt sau cái gọi là "có công giải phóng, giành độc lập cho đất nước" !? Có công hay không, lịch sử cũng đã sáng tỏ rồi !).
Ngày 28. 9. 1864: Được sự hậu thuẫn của giới quý tộc và lớp giàu có tại Anh; Pháp; Đức; Thụy Sĩ; Tây Ban Nha v.v, cũng như được bí mật yểm trợ từ các hội kín, hai ông F. Engels và K.H.Marx công bố sự thành lập Hội Thợ Thuyền Quốc Tế (the International Workingmen Association, có thể đọc là Hội Công Nhân Quốc Tế ).
Trong các năm từ 1864 đến 1872: Khoảng thời gian này, do thường có nhiều hội viên Hội Thợ Thuyền Quốc Tế lui tới họp kín ở Geneva, Thụy Sĩ nên người ta khám phá ra hội này trong bí mật còn có tên Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản (the First Communist International, đọc gọn hơn là Quốc Tế Một (the First International). Quốc Tế Cộng Sản Một nữa kín nữa hở ra mặt làm ồn ào ở Âu Châu một thời gian, tới năm 1876 họ rút vào bí mật để tái tổ chức, chuẩn bị cho các đợt bạo loạn dữ dội hơn trong tương lai.
Tính đến tháng 3. 1865: Đã có hơn 20 hội kín không cộng sản ở khắp Âu Châu xin tham gia và sáp nhập với Hội Thợ Thuyền Quốc Tế. Tiêu biểu có những hội kín quý tộc lẫn khủng bố sau đây xin gia nhập: the Marianne; the Freres de la Republique of Lyons - Marseilles; the Fenians of Ireland; the Carbonari v.v.
Năm 1868: Bản Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản được in lại và công bố lần thứ hai. Lần này chính thức đổi tên là Tuyên Ngôn Cộng Sản (the Communist Manifesto), tên của ông Karl Heinrich Marx cũng được ghi vào bản tuyên ngôn mới này.
Ngày 10.11.1868: Tại Sài Gòn Việt Nam, hội kín Tam Điểm qua Tổng Bộ - Pháp (Grand Loge de France, GLDF) cho thành lập một phân bộ Tam Điểm trên xứ sở này, đưọc nấp dưới cái tên là phân bộ Đông Phương Thức Tỉnh (Le Reveil de l'Orient) với 18 hội viên ban đầu, người trưởng phân bộ là Ủy Viên Hải Quân Michel Ember (1837- ?). Sau đó, vì thấy trước sự trù phú, lợi lộc về lâu dài cuả ba quốc gia mà họ xâm lăng và cai trị là Việt Nam; Lào; Cam Bốt, tổng bộ ở Pháp cho thành lập thêm ở Ba Lê phân bộ Đại Đông Phương thuộc Pháp (Grand Orient de France, GODF, phân bộ này cũng có vài hệ phái như Liên Đoàn Hoàn Vũ (La Fédération Universelle, LFU); Nhân Quyền (Droit Humain, DH) v.v. Sau này ông Nguyễn Tất Thành (HCM) gia nhập hệ phái La Federation Universelle của GODF tại Ba Lê ngày 14.6.1922. Tới ngày 7.7.1922, phòng nhì Pháp và các sở chính trị thuộc Toàn Quyền Đông Pháp đều được báo cáo đầy đủ việc này). Những ngày đầu phân bộ Đông Phương Thức Tỉnh chỉ nhận những nguời Pháp, sau đó mới mở rộng sự kết nạp cho người Việt Nam, trong đó có những vị nổi tiếng như các ông Bùi Quang Chiêu, GLDF (1872-1945); Cao Sĩ Tấn, GLDF (1893- 1974); Cao Triều Phát, GLDF (1889- 1956); Đặng Trung Chữ, FB3 (Cao Đài, ?); Đỗ Hữu Bư, GLDF ( ? ); Đỗ Hữu Trí, GLDF ( ? ); Dương Văn Giáo, GLDF (1892- 1945); Hoàng Minh Giám, GODF (1904-1995); Lê Lan, DH ( ? ); Lê Thanh Y, GODF ( ? ); Lê Thước, GLDF ( ? ); Minh Luen, GODF ( ? ); Thang, GLDF ( ? ); Nguyễn Công Chiêu, GODF ( ? ); Nguyễn Văn Thinh, GLDF ( ? ); Nguyễn Văn Vĩnh, DH (1882- 1936); Nguyễn Xuân Đại, GLDF ( ? ); Phạm Huy Lực, DH ( ? ); Phạm Quỳnh, GLDF (1892- 1945); Phan Anh, GODF (1912- 1990); Tạ Thu Thâu, FB3 (1906- 1945); Trần Nguyên Hạnh, GODF ( ? ); Trần Quang Nghiêm, FB3 ( ? ); Trần Trọng Kim, GLDF (1883- 1953); Trần Văn Lợi, GODF ( ? ); Trần Văn Thy, GLDF ( ? ); Trịnh Đình Thảo, GLDF (1901- 1986); Trương Kế An, GODF ( ? ); Vũ Đình Hoè, GODF (1912- 2011); Vương Quang Nhường, GLDF (1902- ? ); Vương Tư Đại, GODF ( ? ) v.v
Giải thích riêng về chữ FB3 nêu trên: Đầu năm 1945, tổng bộ Tam Điểm ở Mỹ móc nối được một hội viên Tam Điểm là ông Ta Thu Thâu nên một hội ái hữu Tam Điểm thân với Mỹ được bí mật thành lập tại Tây Ninh vào năm này. Lúc đó Đại Tá William Donovan (1.1.1883- 8.2.1959) tuy là Giám Đốc Phòng Công Tác Chiến Lược (Office of Strategic Service, OSS, tiền thân Cục Tình Báo Trung Ương sau này, CIA- Central Intelligence Agency) nhưng ông đặc biệt đảm trách tình báo riêng cho khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Bên cạnh ông W. Donovan còn có hai người quan trọng nữa cũng đang hoạt động tại khu vực nói trên là Trung Tướng Joseph Stilwell (19.3.1883- 12.10.1946), đại diện cao cấp cuả Mỹ cho Thống Chế Tưởng Giới Thạch (31.10.1887- 5.4.1975) cuả Cộng Hoà Trung Hoa Dân Quốc và Đại Tá Claire Chennault (6.9.1893- 27.7.1958), Chỉ Huy Trưởng Không Đoàn Cọp Bay (Flying Tigers Air-Wing) đang hoạt động ở Côn Minh. Phiá Mỹ bước đầu lập hội ái hữu Tam Điểm ở Tây Ninh là để có "nội tuyến" theo dõi quân đội Nhật Bản ở phiá Nam - Việt Nam. Cả ba vị nêu trên đều là hội viên cao cấp cuả tổng bộ Tam Điểm Liên Bang Mỹ. Nên khi ba người lập ra nhóm Tam Điểm riêng cho khu vực Á Châu- Thái Bình Dương, họ đã lập ra một ám danh là Huynh Đệ Tự Do 3 (Free Brothers 3) để chỉ riêng những người Việt Nam nào được họ kết nạp trong khu vực này, từ đó mới có ám tự là FB3 như trường hợp các ông Đặng Trung Chữ (Cao Đài); Trần Quang Nghiêm; Tạ Thu Thâu. Trường hợp ông Hồ Chí Minh thì không nằm trong nhóm Tam Điểm FB3, vì ông ta được "khai thị" nhập hội từ năm 1922 ở bên Pháp. Tuy nhiên, sự kiện ông HCM được xếp đặt gặp ông C. Chennault tại Côn Minh rồi được ông này giới thiệu cộng tác với OSS dưới bí danh Lucius, bí số 19, được giúp đỡ vũ khí, huấn luyện v.v đều bắt nguồn từ tin (bịp) là phe ông ta cứu được viên phi công Mỹ ở Cao Bằng trong tháng 1.1945 (Trung Úy William Shaw). Đó là chuyện láo do Mỹ và Việt Cộng phiạ ra. Lý do ông HCM được nhóm FB3 gíúp là vì, trên tất cả, họ là "Huynh Đệ" Tam Điểm với nhau (đó là luật của hội kín này) cũng như Mỹ đã giúp nhóm Tam Điểm tại Tây Ninh. Nếu Mỹ quả thật lòng muốn giúp một lực lượng nào đó để đối phó với Nhật ở miền Bắc- Việt Nam. Tại sao họ không giúp cho những nhóm khác lúc đó cũng có đại diện ở Côn Minh; Trùng Khánh thuộc lực lượng cuả các ông Hồ Học Lãm (1883- ? ); Nguyễn Hải Thần (1878- 1959) và Vũ Hồng Khanh (1898-1995) ?? Hội kín chúng nó cấu kết với nhau để cướp nước Việt Nam là như vậy đó ! ).
Năm 1884: Luân Đôn nước Anh, hai vợ chồng Beatrice Potter Webb (2.1.1858- 30.4.1943) và Sidney James Webb (13.7.1859- 13.10.1947) cùng với ông George Bernard Shaw (6.7.1856- 2.11.1950) lập ra một hội kín có tên Hội Fabian (the Fabian Society). Cả ba người này vốn là hội viên của Sáng Tuệ cũng như Tam Điểm, nhưng nay lập riêng thêm hội Fabian vì họ muốn vươn cánh tay nối dài từ chính trường nước Anh tới tận chính trường nước Mỹ. (Hội kín Fabian không thu nạp hội viên thuộc thành phần nghèo khổ, thất học hay côn đồ vô lại, hội chỉ chọn giới thượng lưu trong xã hội Anh như quý tộc vương triều, chủ ngân hàng, chủ kỹ nghệ, giới khoa bảng, trí thức nổi tiếng, luật sư, thương gia v.v. Cương lĩnh cuả hội Fabian cũng giống như hội Sáng Tuệ là tham vọng làm chủ toàn thế thế giới, nhưng lại khác ở chỗ nó không trực tiếp tổ chức gây bạo loạn. Tuy nhiên Fabian sẵn sàng cho các hội kín khác vay tiền có điều kiện giúp "cách mạng thành công" ! Nếu hội kín Sáng Tuệ được xem như cha đẻ của Liên Bang Mỹ (thiết kế cấu trúc chính quyền), thì hội kín Fabian chính là mẹ đẻ cuả quốc gia này (thao túng chính trường). Chiến lược cuả hội kín Fabian là kiên nhẫn, thực hành rất chậm qua nhiều giai đoạn, có thể mất vài thế hệ và chấp nhận tốn kém tài chánh cho mục tiêu lâu dài. Vì vậy biểu tượng ban đầu mà hội Fabian chọn là hình một con ruà, sau đó đổi thành hình một con chó sói khoác áo choàng lông cừu và đi bằng hai chân. Biểu tượng ấy hàm ý sự hoạt động cuả Fabian là chậm nhưng chắc chắn, tuy hiền lành bên ngoài nhưng có nanh vuốt ở bên trong (cộng sản quốc tế ra đời từ đây với lớp áo "tư bản").
Tới năm 1900, hội kín Fabian cho lập ra ngoài công khai một tổ chức chính trị mang tên Ủy Ban Đại Diện Lao Động (the Labour Representation Committee- LRC), nhưng năm 1906 thì cái "uỷ ban" toàn những kẻ chưa từng đổ mồ hôi vì lao động đó, lại đổi tên là Đảng Lao Động Anh (the British Labour Party- BLP). Nào đã hết đâu ! Bên cạnh Đảng Lao Động Anh, hội kín Fabian cũng cho vay tiền để một nhóm khác lập ra Đảng Bảo Thủ (the Conservative Party- CP) để tạo ra hai đối cực chính trị tại nghị trường nước Anh. Công chúng bên ngoài cứ tưởng đó là hai tổ chức đối lập nhau, nhưng đó là sự che mắt công luận vì thật ra bên trong cả hai đều có cùng cha mẹ là hội kín Fabian. Đó cũng là trường hợp của hai đảng Cộng Hoà và Dân Chủ ở Mỹ, lúc tranh cử thì đấu đá nhau, nhưng phe nào sau khi thắng cử rồi đều cũng phải làm theo ý cuả kẻ giàu có bỏ tiền ra cho mình tranh cử, và những kẻ như vậy đều thuộc hội kín Sáng Tuệ hoặc Tam Điểm. Vấn đề hai đảng ở Anh và ở Mỹ cử người ra tranh cử (thủ tướng, tổng thống) thì không có sự gian lận. Hội kín để hai đảng tự do chọn người xuất sắc nhất cuả mình, sau cùng thì để dân chúng bầu ra một người. Và bất cứ người nào sau khi đắc cử, nếu muốn yên vị hay được thêm nhiệm kỳ nữa thì phải làm theo sách lược cuả thế lực tiền bạc trong bóng tối đã từng làm chủ chính trường Anh và Mỹ. Vì thế, Bảo Thủ hay Lao Động (Anh), Dân Chủ hay Cộng Hoà (Mỹ), Đảng hay Nhà Nước (Việt Cộng) ..gì gì đó thì dù tuy hai cũng vẫn là một, là hai mặt khác nhau cuả một đồng tiền như trò chơi sấp ngữa. Nhưng trò chơi ấy độc ác ở chỗ, cái nơi để họ tung đồng tiền lên rồi rơi xuống lật lên một mặt, đó là cái lưng cuả người dân làm lụng cực khổ cả đời để đóng thuế nuôi chúng nó, và còn phải cảm ơn thế lực ma quỷ đó cho mình được tự do ..đi bầu, tự do ngôn luận, tự do đi làm và đủ thứ tự do .... trong một cái lồng son mà không ai thấy. Vậy Fabian có nghĩa là chi ? Ấy là tên cuả một viên tướng rất giỏi chiến thuật đánh lén sống vào thời đế quốc La Mã. Tên đầy đủ cuả ông ta là Quintus Fabius Maxius Verrucosus, biệt danh Cunctator (275- 203 trước lịch Tây). Lúc đó quân đội "nhà nghề" lừng danh cuả đế quốc La Mã cứ bị thua xiểng niểng, khắp đế quốc bị tấn công đốt phá bởi quân đội Phoenician rất giỏi nghề vượt biển, thuộc "vương quốc" thành phố Carthage (nay là nước Tunisia, Bắc- Châu Phi). Viên tướng tổng tư lệnh quân đội Phoenician là ông Hannibal Barca (247- 183 BC) thành lập một hạm đội hải quân dũng mãnh, có thể chở cả voi sang tấn công La Mã (nước Ý Đại Lợi ngày nay). Quân đội La Mã cứ mổi lần ra mặt giao chiến thì bị thua vì không chịu nổi đoàn voi chiến xung trận cuả quân Phoenician. Viên tướng La Mã là Fabius phải dùng chiến thuật đánh lén. Đêm đêm mò tới doanh trại Phoenician đốt phá rồi bỏ chạy..và cũng làm voi cuả đối phương chạy tán loạn. Đợi lúc quan binh của Phoenician đang nhốn nháo dọn dẹp doanh trại thì phiá La Mã đem quân tới đánh úp. Mổi khi họ đi đánh lén thì cho đốt phá hai ba nơi nên quân Phoenician không thể tiếp cứu với nhau, cũng có khi tướng Fabius lén đem quân đi vòng đường biển tới tấn công vào hậu phương cuả địch là thành phố Carthage. Chiến thuật đánh lén kiểu đó sau cùng cũng làm phiá Phoenician thua trận và bị La Mã thâu tóm. Hội kín Fabian chọn tên viên tướng ấy để nói lên cương lĩnh hoạt đông cuả mình là giấu mặt và đánh lén. Cộng sản ở Việt Nam cũng học mưu chước đánh lén này, nhưng vì học không thuộc bài nên đánh đâu thua đó là như vậy).
Năm 1888: Quốc Tế Cộng Sản 1 sau vài năm vắng tiếng nay hoạt động trở lại ở các nước như Thụy Sĩ; Đức; Pháp; Bỉ; Nga; Anh v.v. Cũng trong năm này, họ chọn một bài hát riêng cho các tổ chức cộng sản là bài Quốc Tế Ca (the Internationale. Nền nhạc vốn được soạn từ năm 1871 ở Pháp bởi ông Eugene Pottier (1816- 1887). Phần lời được viết trong năm 1888 cũng tại Pháp do ông Pierre Degeyter (8.10.1848- 27. 9. 1932). Ông này sau bị kiện bời chính người em trai là Adolphe Degeyter (1858- 15.2.1917). Người em thưa rằng lời nhạc được hai anh em viết chung chớ không phải một người. Sau rốt, toà tuyên bố cho ông anh được hưởng quyền là tác giả Quốc Tế Ca (chỉ riêng phần lời bài hát, còn phần nhạc thì thân nhân người soạn được thừa hưởng. Để được "độc quyền" hát bài Quốc Tế Ca, các hội cộng sản khắp nơi mổi năm phải đonó 500 quan Pháp cho những người thừa hưởng tác quyền).
Năm 1889: Một nhóm quý tộc, trí thức, chủ nhà băng, thương gia v.v tổ chức một cuộc họp ờ Geneva, Thụy Sĩ và tuyên bố họ là đại diện của Đệ Nhị Quốc Tế Cộng Sản (the Second Communist International). Phong trào Quốc Tế Cộng Sản 2 cũng đánh trống thổi kèn ầm ỹ vài năm rồi âm thầm đến Nga hoạt động.
Năm 1895: Hai hội viên Quốc Tế Cộng Sản 2, và cũng là hội viên hội Sáng Tuệ là ông Lev (Leon) Davidovich Bronstein, bí danh Trotsky (7.11.1879- 20.8.1940) và Vladimin IIyich Ulyanov Nikolai, bí danh Lenin (10.4.1870- 21.1.1924) cùng 9 người đồng hội thành lập Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội (the Social Democratic Labor Party, tiền thân đảng cộng sản Nga sau này).
Tháng 7.1903: Ở thủ đô Brussels vương quốc Bỉ, trong đại hội lần thứ 2, để dứt khoát chọn đường đi làm...cách mạng.. cho mình, Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội Nga bị chia làm hai lối rẽ. Phe theo ông V. Lenin thì nhất định "làm cách mạng cần có bạo lực", sau khi cướp được chính quyền cũng "tập trung vào trung ương đảng tất cả các quyền" và phải "truyền bá, yểm trợ bạo lực cách mạng đi khắp thế giới" ! Phe theo ông L. Trotsky thì "làm cách mạng không nhất thiết phải cần bạo lực", nếu thành công phải "phân tán quyền lực cho đồng đều để tránh sự độc tài toàn trị cuả đảng hay cuả một cá nhân", nên chú tâm "phát triển quốc gia trước khi nghĩ đến phạm vi thế giới" ! Buổi họp kéo dài trong căng thẳng và hai phe cải nhau như mổ bò. Phe ông L. Trotsky phần đông là nhà giàu, học giả, trí thức nên cải không lại phe ông V. Lenin, phần lớn là côn đồ, vô lại, một bọn lưu manh đầu trộm đuôi cướp trong số dân Nga lang bạt tại Âu Châu. Đến lúc mệt và quá nhức đầu, trong nhóm ông L.Trotsky có 7 người đứng lên bước ra ngoài phòng họp. Ngay lập tức, ông V. Lenin cho người chặn cứng cánh cửa đã đóng đồng thời yêu cầu những người còn lại bỏ phiếu quyết định. Kết quả phe ông V. Lenin "thắng lớn" nhờ "lâu la" đông hơn phe kia. Cuộc họp chấm dứt với hơn một nữa số ghế trong Ủy Ban Trung Ương lọt vô tay phe dùng bạo lực đi làm cách mạng. Họ cũng được quyền giữ ngân quỹ nội bộ và chiếm luôn tờ báo "Sự Thật" (Praha) cuả đảng. Kể từ năm này, trong đảng cộng sản Nga mới có hai chữ "Số Đông" (Bolshevik, bolshistvo, số nhiều) và "Số Thưa" (Menshevik, menshinstvo, số ít). Phe thắng thế nhờ sự tinh ranh cuả ông V. Lenin, phe Bolshevik, sau này tới thời ông Iosif (joseph) Vissarionovich Dzhugashvili, bí danh Stalin (21.12.1879- 2.3.1953) còn được biết tới là phe "Cộng Sản Toàn Nga" (All - Russian Communist). Với sức mạnh cuả bạo lực và bạo loạn, phe Bolshevik đã chiếm nước Nga năm 1917.
Tháng 11.1904: Ông V. Lenin cùng 7 người thân cận nhất của nhóm "bolshevik" tới Luân Đôn tìm sự giúp đỡ. Họ đã gặp được ông James Ramsey MacDonald (12.10.1866- 9.11.1937), người đang là thủ lãnh Fabian trong bóng tối, đứng đầu Ủy Ban Đại Diện Lao Động (1906 là Đảng Lao Động Anh) ngoài công khai và sau này sẽ là thủ tướng Anh trong hai nhiệm kỳ (1924- 1935, lúc được làm thủ tướng, ông ta đưa nhiều hội viên cao cấp cuả Fabian vào giữ các chức vụ quan trọng trong chính phủ, kể cả người sáng lập hội kín Fabian là ông Sidney James Webb cũng làm Bộ Trưởng Lao Động) ! Trong các cuộc họp giữa hai bên, phía cộng sản được đại diện Fabian cam kết sẽ yểm trợ tài chánh cho một cuộc cách mạng tại đế quốc Nga. Trước mắt, trong thời gian ở Luân Đôn họ được xử dụng Nhà Thờ Huynh Đệ (Brotherhood Church) làm nơi hội họp. Họ còn được giúp trước 3.000 bảng anh để tiêu xài từ một công dân Mỹ giàu có (gốc Đức- Do Thái), chủ hãng xà bông là ông Joseph Fels (1853- 1914).
Đầu tháng 1.1905: Nhóm cộng sản ở Luân Đôn cùng ông V. Lenin đi Thụy Sĩ, từ đây họ xâm nhập vô Nga để chuẩn bị một kế hoạch biểu tình quy mô mà chắc chắn sẽ bị đàn áp bởi nhà cầm quyền. Đó là điều họ mong đợi để có cớ đẩy mạnh tuyên truyền, phát triển lực lượng và gây sự chú ý trước dư luận ở Âu Châu (vào lúc này, các chi bộ cộng sản (đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội) ở Nga tuy nhiều nhưng tổ chức kết hợp còn lỏng lẻo, không đồng nhất. Chưa kể tới hai phái "Bols" và "Mens" đang "hục hặc" với nhau. Họ cần phải làm để đảng viên cơ sở học thêm kinh nghiệm và phát triển tổ chức).
Ngày 22. 1. 1905: Khoảng 30,000 người dân Nga gồm giới công nhân kỹ nghệ, hoả xa, mỏ than v.v cùng với gia đình cuả họ tập trung biểu tình trong ôn hoà tại thủ đô Saint Petersburg (Petrograd). Đoàn người vừa đi vừa hát vang những bài ca yêu nước, họ nhắm hướng Cung Điện Muà Đông mà tiến tới với mục đích sẽ trao các kiến nghị, yêu sách cho Nga Hoàng Nicholas II (18.5.1868- 17.7.1918, có thể ghi là Sa Hoàng (Czar). Suốt cuộc tuần hành, đoàn biểu tình không gặp sự cản trở nào từ cảnh sát, binh lính nhưng lúc đến trước quảng trường cuả Cung Điện Muà Đông thì họ đối mặt với một lực lượng cảnh sát, quan binh đang cầm súng đứng chờ. Ngay lập tức, đủ các loại súng chĩa thẳng bắn xối xả vào đám đông làm mọi người kinh hoàng bỏ chạy tán loạn. Khắp Âu Châu rúng động khi biết được tin này. Sau đó chính quyền Nga đưa ra con số có 96 người chết và 333 người bị thương. Riêng phiá chống đối thì cho biết có hơn 4.000 người bị giết, nhưng theo những người nghiên cứu riêng thì ước tính chừng hơn 1.000 người bị chết vì đạn hoặc do giẫm đạp lúc hỗn loạn xảy ra. Biến cố này là một tác động quan trọng nhất để đưa những làn sóng căm phẫn, bất bình lên cao thêm những năm sau và kéo theo sự sụp đổ cuả đế quốc Nga. Dĩ nhiên kẻ thủ đắc nhiều nhất chính là bọn xúi giục, khích động dân chúng biểu tình nhưng ẩn nấp dưới danh xưng là những nhà cách mạng cộng sản. Sách sử Nga gọi sự kiện bi thảm đó là ngày "Chủ Nhật Máu Me" (the Bloody Sunday - 1905). Trong cuốn "Unseen Hand - An Introduction to the Conspiratorial View of History", Publius Press, Arizona xuất bản năm 1985, ở trang 101 tác giả Ralph Epperson ghi như sau: ..."Perhaps the most crucial event in the Russian Revolution occurred in the spring of 1905, when the British Fabian Society, a non- violent revolutionary group, met the Bolsheviks, a violent revolutionary group, in London, England. It was at this meeting that loans were arranged between the two groups so that the Bolsheviks could start their revolution. Joseph Fels, a member of the Fabian Society and a wealthy American soap manufacturer, loaned the Bolsheviks large sums of money, as did other members of the Fabian"....("Có lẽ sự kiện then chốt nhất dính líu tới cuộc Cách Mạng Nga trong mùa xuân 1905, là khi Hội Fabian Anh, một nhóm cách mạng- không bạo động, gặp gỡ những kẻ Bolshevik, nhóm làm cách mạng bạo động, tại Luân Đôn, Anh.Trong cuộc tiếp xúc đó tiền cho vay đã được thỏa thuận giữa hai bên để nhóm Bolshevik có thể phát động cuộc cách mạng cuả họ. Joseph Fels, một hội viên cuả Fabian và cũng là một dân Mỹ giàu có làm chủ hãng xà phòng, đã cho đám Bolshevik vay một khoảng tiền lớn, các hội viến khác cuả Fabian cũng làm như vậy"...).
Tháng 2.1905: Ông L. Trotsky lẻn về Nga rồi tới ẩn thân ở thành phố Kiev, nơi ông ta có cả một nhà máy in (máy móc đem về từ Anh, Mỹ) truyền đơn, bản tin và được đặt dưới một căn hầm kín đáo. Tại đây ông L. Trotsky đã viết rất nhiều, gần như mổi ngày, nên khắp các ngõ ngách ở Nga các đảng viên cộng sản đọc được nhận xét về biến cố vừa qua cuả một lãnh tụ cộng sản, phe Menshevik, ông ta bắt đầu đưa ra ý kiến rằng "biểu tình trong ôn hoà sẽ bị thất thế trước nòng súng cuả kẻ cầm quyền". Như vậy lập trường cách mạng bất bạo động cuả ông L. Trotsky đã có sự thay đổi qua chủ trương bạo động của ông V. Lenin. Sau hai tháng ẩn nấp ở Kiev, ông L. Trotsky cho di chuyển các phương tiện in ấn tới thủ đô Saint Petersburg. Giữa tháng 5.1905, cảnh sát và mật thám phát giác sự có mặt cuả ông L. Trotsky trong thành phố nên họ tung ra nhiều đợt truy lùng, buộc ông ta phải trốn qua Phần Lan hoạt động (vào lúc đó hai vưong quốc Phần Lan, Ba Lan v.v còn đang là "thuộc địa" cuả đế quốc Nga).
Ngày 3.12.1905: Toàn bộ nhóm lãnh đạo cộng sản Menshevik ở Phần Lan bị cảnh sát bao vây bắt gọn, kể cả ông L. Trotsky. Sang năm 1906 cả nhóm bị đưa ra toà nhưng chỉ bị truy tố với tội "ủng hộ bọn phản nghịch có vũ trang". Vì vậy nhóm ông không ai bị treo cổ hoặc lên máy chém, họ chỉ bị đưa đi lưu đày và ông L. Trotsky thì phải tới vùng Obdorsk, Siberia ở Đông - Bắc nước Nga).
Tháng 1.1907: Trên đường đi đày bằng xe lửa, nhờ sự giúp sức cuả các đảng viên cộng sản ông L. Trotsky đã trốn thoát ở ga Berezov rồi đưọc bí mật chở tới Thụy Sĩ. Tại đây ông đi tiếp đến nước Anh và kịp dự hội nghị lần thứ năm cuả Đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội tổ chức ở Luân Đôn. Tại Nga, nhà cầm quyền đã phát lệnh truy nã đi các nơi, họ treo giải thưởng thật cao cho những ai bắt được một trong hai người là V. Lenin và L. Trotsky (riêng ông J. Stalin thì đang bị lưu đày tại Siberia).
Tháng 6.1907: Hai ông V. Lenin và L. Trotsky cùng 17 ủy viên trung ương đảng đã tổ chức nhiều cuộc họp với ông James Ramsey MacDonald, với các đại diện cuả giới chủ nhân kỹ nghệ tại Âu Châu, Liên Bang Mỹ. Họ đã được cam kết sẽ có nguồn yểm trợ tài chánh, cho vay lâu dài - cho không trước mắt, nhằm đẩy mạnh các hoạt động tạo biến loạn cho tới khi "cách mạng thành công" ở nước Nga.
Tháng 10.1907: Cả hai lãnh tụ Menshevik và Bolshevik rời nước Anh tới Thụy Sĩ, nơi các ngân hàng đã nhận nhiều nguồn tiền đổ vô trương mục dưới tên những người xa lạ mà chỉ có hai người này biết. Sau khi ghé Thụy Sĩ, họ lên đường đi các nơi, lui tới như con thoi giữa các nước Pháp; Áo; Đức; Ba Lan; Bảo Gia Lợi; Hung Gia Lợi v.v thành lập thêm nhiều chi bộ địa phương cho đảng Lao Động Dân Chủ Xã Hội (tiền thân cuả những đảng cộng sản ở Đông Âu sau này). Họ cũng gởi nhiều nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh và kể cả tiền tới Phần Lan; Nam Tư; Nga cho các chi bộ cộng sản tại địa phương cố gắng thu nạp thêm nhân sự, tích luỹ vũ khí, đạn dược, thuốc nổ v.v và sẵn sàng chờ lệnh cuả trung ương.
Tháng 1.1912: Hai phe cộng sản mở hội nghị tại Cracow, Ba Lan. Dù hai bên vẫn còn bất đồng về phương cách làm cách mạng, nhưng một nghị quyết chung cuộc cũng được đưa ra là hai phe vẫn cần sự đoàn kết để tiến tới mục tiêu là lật đổ Nga Hoàng. Sau hội nghị, ông V. Lenin đi Thụy Sĩ còn ông L. Trotsky thì tới Vienna cuả đế quốc Áo - Hung và tiếp tục tung ra nhiều bài viết kết án đế quốc Nga.
Ngày 28.6.1914: Một vụ ám sát làm chấn động Âu Châu đã xảy ra ở Bosnie, Nam Tư (vương quốc Serberia). Hai nạn nhân là Hoàng Tử- Công Tước nước Áo Franz Ferdinand (18.12.1863- 28.6.1914) và vợ là Quận Chuá Sophie Chotek (1.3.1868- 28.6.1914, tên đầy đủ là Sophie Maria Josephine Albina Chotek von Chotkow unk Wognin) khi họ đến thăm vương quốc này. Thủ phạm là một nhóm 6 người và kẻ chỉ huy là người gốc Bosnie. Quan trọng hơn họ thuộc một hội kín có tên Bàn Tay Đen (the Black Hand), một tổ chức khủng bố vòng ngoài cuả cộng sản hoạt động tại Nam Tư. Vụ ám sát này đã đưa Âu Châu vào biển lửa.
Ngày 28.7.1914: Chiến Tranh Thế Giới Lần Thứ Nhất (First World War hay World War I (28.7.1914- 11.11.1918) được châm ngòi khi đế quốc Áo- Hung công bố lời tuyên chiến đối với vương quốc Nam Tư. Chiến cuộc đã xảy ra suốt bốn năm, làm thiệt mạng 10 triệu người lính, 7 triệu người dân, gần 20 triệu người bị thương cùng với sự tham chiến cuả các nước như: Áo- Hung Gia Lợi; Nga; Pháp; Đức; Ý Đại Lợi; Montenegro; Luxembourg; Albania; Nam Tư; Bảo Gia Lợi; Lỗ Ma Ni; Bỉ; Hy Lạp; Đế Quốc Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ); Anh cùng chư hầu thuộc địa là Úc Đại Lợi; Gia Nã Đại; Tân Tây Lan; Ấn Độ; Liên Hiệp Nam Phi...rồi cả hai nước ở xa lắc cũng bị cuốn vào cuộc chiến là Mỹ và Nhật Bản).
Ngày 3.8.1914: Ông L.Trotsky phải bỏ trốn khỏi Vienna (Áo) chạy sang nước trung lập là Thụy Sĩ. Ông ta sợ phải mang họa vào thân vì đế quốc Nga đã tham chiến chống lại đế quốc Áo- Hung.
Ngày 5.9.1914: Ông V. Lenin cũng trốn tới Thụy Sĩ, bí mật hoạt động tại hai thành phố Bern và Zurich.
Ngày 19.11. 1914: Ông L.Trotsky đến nước Pháp sống gần hai năm và chú tâm tới tuyên truyền trong giới công nhân. Tới ngày 31.3.1916, ông ta bị chính quyền Pháp trục xuất vì các hoạt động cho cộng sản. Bí quá ông L. Trotsky phải tới Tây Ban Nha nhưng cũng bị nước này trục xuất vào ngày 25.12.1916. Sau cùng ông ta lên tàu đi Mỹ, tới Nữu Ước ngày 13.1.1917 và ở lại đây cho tới khi xảy ra cách mạng ở bên Nga.
Ngày 28.2.1917: Nga Hoàng Nicholas II chấp nhận thoái vị, sau khi chứng kiến một cuộc biểu tình vĩ đại mà người tham dự đông hơn 350.000 người gồm công nhân, binh lính, thương gia v.v mà hơn một nữa có súng đạn. Và có thể sẽ dữ dội hơn trong những ngày tới. Ông vua hết thời không còn sự chọn lựa, trước sự đòi hỏi cuả người dân (bị "cộng sản" và "tư bản" xúi giục), chế độ phong kiến ở Nga cuối cùng cũng tới hồi chấm dứt.
Ngày 15.3.1917: Một Chính Phủ Lâm Thời được thành lập giữa cảnh đình công, biểu tình, bạo loạn v.v xảy ra tràn lan trong lãnh thổ đế quốc. Hoàng tử Georgy Yevgenyevich L'vov (30.1.1861- 7.3.1925) được bầu làm thủ tướng (Tuy vậy tình hình vẫn không được khả quan hơn nên tới ngày 21.7.1917, một nhà hoạt động xã hội, ông Aleksandr Kerensky (4.5.1881- 11.6.1970) đưọc chọn làm thủ tướng. Ông này vừa nhậm chức đã ra lệnh ân xá cho những tù nhân chính trị thuộc loại nguy hiểm nhất cuả phong trào cộng sản, kể cả hủy bỏ các lệnh truy nã đối với hai ông V. Lenin và L. Trotsky. Ông này thật tình làm theo "lời khuyên" cuả những chủ ngân hàng, chủ các công ty ở Anh; Mỹ và Thụy Sĩ. Họ "khuyên" rằng nếu muốn cứu vãn tình thế, tái lập trật tự ở Nga chỉ có cách cho những người cộng sản được tự do hoạt động. Giới nông dân và thợ thuyền sẽ nghe lời hai người đó hơn là các mệnh lệnh đưa ra từ chính phủ lâm thời).
Ngày 27.3.1917: Ông L. Trotsky rời Liên Bang Mỹ về nước. Cùng đi với ông có 275 người Nga được tuyển mộ tại các khu phố nghèo nàn cuả thành phố Nữu Ước, họ thuộc thành phần du đảng, cướp của, giết người v.v tại thành phố chật chội này. Ông L. Trotsky rời cảng Nữu Ước trên chiếc tàu buôn SS Christiana, trực chỉ cảng Petrograd cuả Nga. Nhưng lúc tàu ghé bến cảng Halifax, tỉnh bang Nova Scotia thì ông ta và đoàn tùy tùng bị nhà chức trách Gia Nã Đại bắt giữ sau khi cảnh sát lên tàu khám xét hành lý. Cảnh Sát Gia Nã Đại cho biết lý do bắt ông L. Trotsky vì ông này mang thông hành chính thức cuả Mỹ nhưng lại là một công dân Nga. Hơn nữa, họ còn tìm được trên 10.000 đô la tiền mặt giấu trong các va ly, một tấm chi phiếu trị giá 1 triệu đô được ký tặng cho ông V. Lenin, người ký là giám đốc ngân hàng chi nhánh Nữu Ước, ông William B. Thompson (1860- 1941(?), công dân Mỹ gốc Anh- Do Thái), và cũng là hội viên cấp lãnh đạo thuộc ngân hàng Chase National Bank cuả ông John Davison Rockefeller, Jr (29.1.1874- 11.5.1960), một chi phiếu khác ký cho ông V. Lenin vay một số tiền lên tới 20 triệu đô la, người ký là ông Jacob Henry Schiff ( 10.1.1847- 25.9.1920, công dân Mỹ gốc Đức- Do Thái, tên thật Jakob Heinrich Schiff), một trong vài ông trùm cuả tập đoàn ngân hàng Mỹ Kuhn Loeb and Co; JP. Morgan Chase; Wells Fargo v.v, vài chi phiếu lặt vặt khác từ những ngân hàng nhỏ cuả Anh; Đức hoạt động ở Mỹ cũng ký tặng hai ông V. Lenin và L. Trotsky một số tiền lên tới 5 triệu đô la ! Thế nhưng, chính phủ Mỹ đã ngấm ngầm vận động thẳng với triều đình nước Anh, vậy là lệnh từ Luân Đôn gởi qua thì chính quyền Gia Nã Đại chẳng còn lý do gì để cầm chân ông L. Trotsky ở bến tàu Halifax ( Mười lăm năm sau, vào ngày 10.6.1932, một dân biểu Mỹ (Cộng Hoà) là ông Louis Thomas McFadden (25.7.1876- 1.10.1936), Chủ Tịch Ủy Ban Hạ Viện về Ngân Hàng và Tiền Tệ Liên Bang (Chairman of the United States House Committee on Banking and Currency) ...đã đem sự thật này ra trình bày trong 25 phút trước quốc hội cuả ...chú Sam ! Ông đã chỉ đích danh thủ phạm tiếp tay cho dịch họa cộng sản là các nhà tài chánh ở Wall Street. Họ cấu kết với các ngân hàng trung ương ở Châu Âu, chuyển tiền cho Bolshevik làm cách mạng tại Nga với sự thông đồng từ Thống Đốc Đoàn cuả Tư Dụng Liên Bang (Board of Governors of the Federal Reserve, xin lưu ý là các thống đốc ngân hàng, không phải thống đốc tiểu bang, cơ cấu Tư Dụng Liên Bang (Federal Reserve) là do các ngân hàng tư nhân lập ra, chẳng phải cuả ...chính phủ Mỹ dù nó có chữ "liên bang" dính trong đó). Dân biểu Louis Thomas McFadden còn vận động tổ chức điều tra vụ này sâu rộng hơn, và vì làm găng quá nên bốn năm sau ông bị chết thật bí ẩn trong một bệnh viện. Báo chí Mỹ từ đấy cũng không dám hó hé nhắc tới sự kiện này nữa ... cho tới năm 1964, một cuốn sách được in ra để tố cáo hết các trò ma muội cuả "chính phủ vô hình" tại Mỹ là cuốn "Chẳng Ngán Gọi Đó Là Phản Quốc" (None Dare Call It Treason, Liberty Bell Press, xb 1964). Tác giả là ông John A. Stormer, một cựu quân nhân trong Chiến Tranh Đại Hàn, nguyên Chủ Tịch Liên Đoàn Tuổi Trẻ Cộng Hoà Missouri (Chairman of the Missouri Federation of Young Republicans), ủy viên Ủy Ban Cộng Hoà Tiểu Bang Missouri (Republican State Committee of Missouri). Ông này khôn hơn, sau lúc sách được xuất bản và trở thành quả bom tấn nổ vang trong xã hội Mỹ thì ổng bỏ ...đi tu, thành một vị mục sư Tin Lành hiền khô từ thuở ấy. Thêm vào đó là báo chí Mỹ "nỗ lực" hướng dẫn dư luận chú tâm tới vấn đề Việt Nam (1964/1965) suốt ngày đêm, tội ác nhờ đó cũng bị lấp che vào quên lãng. Trong cuốn sách đó, nơi trang 28 tác giả ghi rằng: ..." In 1916-1917, Leon Trotsky was in exile in America. In New York, he recruited, financed, and trained a cadre of gangsters and hoodlums. Transported to Russia, this hard core of cutthroat shock troops was used by Lenin and Trotsky to seize control of the shaky Kerensky Republic"...("Trong 1916 - 1917, Leon Trotsky sống lưu vong ở Mỹ. Tại Nữu Ước, ông ta tuyển mộ, lo tiền, và huấn luyện cho một đám toàn du đảng và lưu manh. Chở tới Nga, bọn cô hồn cốt cán bạo binh chuyên cắt cổ này được Lenin và Trotsky dùng đoạt kiểm soát cái nền Cộng Hoà đang rung chuyển cuả Kerensky"). Ê chề hơn, ở trang 27 ông John A. Stormer còn phán một câu chắc nịch: ..."Every Communist country in the world literally has a "Made in USA" stamp on it"...("Mổi nước cộng sản trên thế giới thiệt ra nó được đóng dấu lên đó là Chế Tạo tại USA").
Ngày 16.4.1917: Ông V. Lenin cùng 32 thuộc hạ đi xe lửa về tới Ga Phần Lan (Finland Station) ở Petrograd. Ông ta đến trên một toa tàu đặc biệt, bọc thép kiên cố và được canh gác, bảo vệ bởi một toán lính Đức đưa tới tận biên giới. Ông trở về Nga lần này công khai và kín đáo mang theo 10 triệu mác (marks) tiền Thụy Điển. Ngoài ra các nhà tài chánh khổng lồ ở Anh; Mỹ; Pháp; Đức cũng đã chuyển vô một ngân hàng Thụy Điển 22 triệu mác cho ông ta vay để .."lo toan" các hoạt động tại Nga, và còn dài dài. Nguồn tiền to lớn mà hai ông V. Lenin; L. Trotsky có để đi làm cách mạng đến từ: J.P. Morgan & Co. Rockefellers; Max Warburg; Alfred Milner- Rothschild; Harriman - Rockefeller- Vanderlip; Paul Warburg- Jacob Schiff; Goldman Sachs v.v (trong vòng bốn năm từ 1918 tới 1922 sau khi "cách mạng" thành công, cộng sản Nga đã chuyển đợt đầu 600 triệu rúp (roubles) tiền vàng cho ngân hàng Kuhn. Loeb & Company cuả ông Jacob Schiff).
..(Vài dữ kiện về hội kín Fabian và Thợ Hồ Tự Do ở nước Nga: Trong một chừng mực nào đó, cộng đồng các sắc dân tại Âu Châu vẫn âm thầm coi dân Nga có nguồn gốc từ Đông- Bắc Á Châu (chủng Mongoloid phương Bắc), qua các đợt di dân về hướng Tây và Nam thời thượng cổ họ đã tiếp xúc, lai giống với chủng Caucasoid ở hướng Bắc và Đông - Châu Âu ngày nay. Định kiến đó cũng được dân Âu dành cho nước Thổ Nhĩ Kỳ ở hướng Đông- Nam Châu Âu. Người dân tại quốc gia này vóc dáng hơi giống như dân Âu, vẫn còn vài sắc tộc "cố cựu" Caucasus (Caucas), cũng nằm trong Khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty Organization- NATO) v.v nhưng vẫn bị coi là gốc Á (chưa nói tới sự khác biệt trong tín ngưỡng), một xứ sở "trắng không ra trắng- vàng không ra vàng" cũng như dân Nga ở hướng Bắc. Trong thực tế, từ xa xưa cho tới nay xã hội nước Nga nói chung đời sống vẫn thấp hơn xã hội vùng còn lại cuả Âu Châu. Có một sự cách biệt rõ ràng trong giao tiếp văn hoá giữa hai xã hội, có thể ngoài vấn đề "chủng lai" còn có những bất lợi như lãnh thổ quá rộng lớn, nằm xa về hướng Bắc, giá lạnh, ngôn ngữ v.v nên nước Nga tới nay vẫn còn đi sau Âu Châu trong nhiều lãnh vực, kể cả vấn đề ...hội kín. Tính đến năm 1800, nước Nga chỉ có vài hội kín cuả thương nhân và thảo khấu, chưa có hội kín chống triều đình, tôn giáo, xã hội v.v như tại Âu Châu. Tới năm 1814, những hội kín bạo động hoặc không bạo động ở Âu Châu mới có dịp len lỏi vào Nga, là lúc liên quân ba đế quốc Áo - Phổ - Nga phá vỡ phòng tuyến Ba Lê, Pháp ngày 30.3.1814. Sau một ngày cuả chiến thắng đó, Sa Hoàng Alexander I (23.12.1777- 1.12.1825); Hoàng Đế (Phổ) Frederick William III (3.8.1770- 7.6.1840); Hoàng Tử (Áo) Karl Philipp F. Schwarzenberg (18.4.1771- 15.10.1820) cùng cỡi ngựa dẫn đầu đoàn quân chiến thắng đi vô kinh đô Ba Lê diễn binh trước mắt dân Pháp (riêng hoàng đế bại trận, Napoleon Bonapartre (15.8.1769- 5.5.1821) sau đó bị đưa đi "an trí" ở đảo Elba, không xa bờ biển phiá Tây- Ý Đại Lợi. Ông ta "ngoan ngoãn" ở đây đúng 300 ngày, trốn thoát về Ba Lê ngày 26.2.1815, tái lập quân đội và uy quyền, "tung hoành" thêm 100 ngày chinh chiến nữa mới chịu thua ở trận Waterloo ngày 18.6.1815. Lần này liên quân đày ông Napoleon B. đi thật xa xuống tận ngoài khơi phiá Tây- Nam Châu Phi. Cựu hoàng đế Pháp sống ở đảo Saint Helena (thuộc Anh) và không ngờ mình bị đầu độc thạch tín, ông qua đời ngày 5.5.1821).
Theo sau vó ngựa cuả Nga trên đất Pháp là những nhà trí thức, khoa bảng, người giàu có và kể cả những kẻ phiêu lưu, bọn đầu cơ chính trị người Nga. Họ muốn tìm hiểu thêm về nước Pháp nên đã tới và dĩ nhiên phải liên lạc, giao thiệp riêng với những người có cùng sự hiểu biết, có kiến thức thích hợp với mình. Qua sự giao tiếp, họ mới biết tới thế giới hội kín ở Âu Châu, có người được bí mật nhận làm hội viên và đem về Nga truyền bá trong xã hội. Đó là trường hợp cuả ba ông V. Lenin; L. Trotsky; J. Stalin v.v.
Từ năm 1814 đến 1914, trong lãnh thổ đế quốc Nga có khoảng 20 phân bộ (chi bộ), hơn 400 phân tổ ( tiểu tổ hạ tầng cơ sở) của khoảng 5 hội kín khác nhau có tổng bộ tại Châu Âu. Riêng hội kín Thợ Hồ Tự Do ở Anh thì hoạt động mạnh nhất, có uy tín và ảnh hưởng nhất trong "làng" hội kín ở Nga. Từ năm 1860 về sau, hội Thợ Đá Tự Do đã lập hai phân bộ Ngôi Sao Phương Bắc (Northern Star- Lodge) và Ngôi Sao Phương Nam (Southern Star- Lodge) ở Nga, tổ chức thu nạp hội viên cũng như Âu Châu, kẻ có tiền hoặc có địa vị trong chính quyền thì nắm quyền lãnh đạo, kẻ có ăn học, trí thức, khoa bảng cũng ở trong nhóm chỉ huy nhưng có giai đoạn, họ sẽ bị đào thải sau khi bị tổ chức lợi dụng cho mục đích tuyên truyền, thu hút công chúng là giới nông dân, thợ thuyền, người ít học, bọn côn đồ vô lại, bọn phiêu lưu lợi dụng cách mạng để tiến thân. Cả ba nhân vật "lịch sử" nêu trên cuả cộng sản đều là hội viên Thợ Đá Tự Do, phân bộ Ngôi Sao Phương Nam từ năm 1890, sau đó là hội kín Sáng Tuệ vào khoảng năm 1895. Nói chung, cuộc Cách Mạng Nga- 1917 dù được đánh trống thổi kèn là "công lao" cuả cộng sản Nga, nhưng thực chất là do sự dàn dựng cuả hội kín Anh và Mỹ, nhất là hội Fabian cũng như tài phiệt Mỹ đã bỏ tiền ra cho hai ông V. Lenin và L. Trotsky làm "cách mạng". Có tới hàng chục bộ sách nói tới chuyện này, chẳng hạn như cuốn "Russia 1917" mà tác giả là ông George Katkov đã tóm tắt sự kiện đó như sau: "There is no doubt, ...that a widespread net of conspiratorial organizations modeled on Freemasons lodges worked for revolution in Russia, and played a decisive role in the formation of the first Provisional Government"...("Không còn nghi ngờ gì nữa, đã có một mạng lưới lan tỏa trong các tổ chức âm mưu kiểu phân bộ Hội Đá Tự Do đã làm trong cách mạng ở Nga, và giữ một vị trí quyết định trong sự tạo ra Chính Phủ Lâm Thời lần thứ nhất"). (Trong bạn đọc có ai muốn tìm hiểu thêm về sự kiện nêu trên, cũng như về nền "cộng hoà" Pháp, sự ra đời của nước Mỹ, xin tìm đọc thêm nơi những cuốn tiêu biểu như: "Before the Storm", Baron C. Wrangell -Rokassowsky, Italy, Tipo- Litografia Ligure. "Building Communism- American Opinion", Gary Allen. "The Rockefeller Syndrome", Ferdinand Lundberg, "The Rockefeller: An American Dynasty", Peter Collier and David Horowitz).
Ngày 1.5.1917: Để phô trương thanh thế, tạo thêm hỗn loạn- hoang mang trong xã hội và cũng nhằm răn đe Chình Phủ Lâm Thời cuả Ông A. Kerensky, cộng sản Nga đã cho tổ chức nhiều cuộc biểu tình rầm rộ ở các thành phố lớn, đồng thời xúi giục tiếp tục đình công trong kỹ nghệ sản xuất và hoả xa. Nhà cầm quyền càng thêm rối bời, bất lực dù đã cho biết sẽ có bầu cử vào ngày 25.11.1917
Ngày 1.5. mà cộng sản cho biểu tình ở đây được rêu rao bên ngoài là ngày "quốc tế lao động", nhưng thật ra ở bên trong thì hai ông V. Lenin, L. Trotsky muốn gởi một tín hiệu báo tin cho hội kín Sáng Tuệ và Fabian biết họ đã sẵn sàng làm đúng theo ước muốn cuả hai hội này
Thời cổ đại, có nhiều sắc dân ở Tây và Nam- Âu thường tổ chức lễ hội, vui chơi đón ngày tàn Xuân- lập Hạ (theo cách tính cuả lịch mặt trời là ngày 1.5). Hoa, quả trong các buổi lễ được họ dâng lên cho một thần nữ với ý nghĩa phụ nữ là hiện thân cho sự đơm hoa kết trái, sanh nở v.v để bắt đầu cho một cuộc sống sung túc và ấm áp. Đến khi đế quốc La Mã thu phục những sắc dân đó, họ không dẹp bỏ phong tục này mà còn chấp nhận nó như một phần văn hoá của mình. La Mã vì thế có Nữ Thần Flora, tượng trưng cho các loại hoa, quả và muà Xuân- Hạ. Nhưng tới ngày 1.5.1776 sau Tây lịch thì ông Adam Weishaupt thành lập hội kín Sáng Tuệ ở Phổ (Đức), và ngày này lại trở thành ngày thiêng liêng cuả các hệ phái thuộc Sáng Tuệ cũng như Tam Điểm về sau.
Vào ngày 1.5. 1886, ở quảng trường Haymarket thành phố Chicago Liên Bang Mỹ, một cuộc biểu tình ôn hoà và có diễn thuyết được tổ chức nhằm đòi hỏi quyền được làm mổi ngày 8 giờ cuả giới công nhân. Cuộc biểu tình kéo dài tới ngày 4 tháng 5 với số công nhân tham dự lên tới hơn 300.000, cảnh sát buộc phải xuất hiện để giải tán. Một kẻ vô danh đã ném thuốc nổ vào toán cảnh sát có mặt nơi biểu tình làm chết 1 cảnh sát viên và hơn 50 thường dân bị thương. Cảnh sát Chicago bắt đầu nổ súng vào đám đông biểu tình, tới nay vẫn không có một con số rõ rệt về thương vong do cảnh sát gây ra.
Ngày 14.7.1889, ở Paris, Quốc Tế Cộng Sản II ra nghị quyết công nhận ngày 1.5 là ngày lễ "Quốc Tế Lao Động", đồng thời kêu gọi một cuộc biểu tình trên toàn thế giới vào ngày 1.5.1890 để tưởng niệm biến cố công nhân bị đàn áp ở Haymarket, Chicago nước Mỹ. Ngày lễ "Quốc Tế Lao Động" theo kiểu cộng sản bắt đầu có từ đây. Và cho dù có biện minh cách nào đi nữa thì ngày 1.5. vẫn là ngày sinh cha đẻ cuả cộng sản , hội kín Sáng Tuệ.
Từ tháng 5 đến tháng 9. 1917: Các toán "xung kích quyết tử" cuả ông V. Lenin được tung ra hoạt động trong bí mật. Họ đã thực hiện hàng trăm vụ bắt cóc, thủ tiêu hoặc ám sát v.v mà nạn nhân là những viên chức trong Chính Phủ Lâm Thời, trong các phe phái ôn hoà, dân túy mà cộng sản cho là .. bọn "phản động". Một làn sóng sợ hãi bao trùm lên các thành phố lớn ở Nga, nhất là tại Petrograd. Thủ tướng Kerensky phải nhượng bộ tới mức để cho cộng sản nắm luôn hai lực lượng quân sự ở Petrograd và Moscow (Mạc Tư Khoa). Có một số đông trong nghị trường đã từ chức, một số khác từ khước tham gia chính trường dù cuộc bầu cử đã gần kề. Những kẻ cầm đầu các toán "quyết tử" cuả ông V. Lenin chính là nhóm 275 người do ông L. Trotsky mướn và huần luyện ở Mỹ. Toán "cô hồn cốt cán bạo binh chuyên cắt cổ" đó, sau sẽ trở thành cán bộ lãnh đạo trung kiên hàng đầu mà ông V. Lenin chọn để lập ra ba tổ chức sát nhân lớn nhất ở Nga là:
1* CHEKA (Chrezvychaynaya Komissiya- Ủy Ban Đặc Trách, Extraordinary Commission. Cheka là cách đọc tắt theo tiếng Nga, cơ quan này còn có tên khác là Ủy Ban Đặc Trách Toàn Nga về Chiến Đấu Chống Phản Cách Mạng và Phá Hoại- All -Russia Extraordinary Commission for Combating Counter-Revolution and Sabotage);
2* KGB (Komitat Gosudarstvennoi Bezopasnosti - Committee for the State Security, Ủy Ban An Ninh Nhà Nước);
3* GRU (Glavnoye Razvedyvatelnoye Upravlenie - Soviet Military Intelligence, Tình Báo Quân Sự Sô Viết).
Trong tháng 10. 1917: Khắp nước Nga gần như tê liệt, công nhân đình công, biểu tình liên miên, nông dân nổi loạn cướp những kho chứa lương thực, lính tráng lũ lượt đào ngũ v.v. Ông A. Kerensky cho phân phát vũ khí vào tay công nhân ở thành phố Petrograd để tự vệ, mà cán bộ cộng sản thì nhà máy nào cũng có nên thợ thầy vác súng theo cộng sản luôn.
Trong hai ngày 6 và 7. 11. 1917: Cộng sản đưa ra những đoàn biểu tình có vũ trang, khói đạn mịt mù khắp Petrograd. Ông A. Kerensky không dám ra mặt và buộc phải trốn khỏi thành phố. Sau đó vượt biên giới, bắt đầu cuộc sống lưu vong khi ông tới Pháp và ở đây tới năm 1940 (tại Pháp ông kết hôn với bà Lydia "Nell" Tritton, một cựu ký giả Úc Đại Lợi, năm 1940, trước mối đe dọa cuả Đức hai ông bà xin di dân tới Mỹ và định cư tại tiểu bang Pennsylvania. Năm 1945, hai người qua Úc Đại Lợi ở đến khi bà mất ngày 10.4.1946 thì ông trở về Mỹ. Ông Alexander Kerensky qua đời ở nhà riêng trong thành phố Nữu Ước ngày 11.6.1970. Một nhà thờ Chính Thống Nga ở đây từ khước việc làm lễ và mai táng ông. Họ cho rằng ông là hội viên hội kín Thợ Hồ Tự Do, hơn nữa ông cũng có một phần trách nhiệm vì để nước Nga rơi vào tay cộng sản. Một nhà thờ Chính Thống khác của di dân Nam Tư ở điạ phương cũng không nhận làm lễ. Sau cùng thi hài của ông được máy bay chở tới Anh và ông được yên nghỉ tại xứ sở... lắm "sương mù" này ).
Ngày 7.11.1917: Nước Nga kể như hoàn toàn lọt vào tay hội kín Âu-Mỹ qua trung gian của nhóm "cộng sản toàn Nga" (bolsheviks), do một hội viên Sáng Tuệ và Thợ Đá Tự Do cầm đầu là ông V. Lenin.
Ngày 8.11.1917: Trong một bài diễn văn trước các đảng viên cao cấp, ông V. Lenin tuyên bố bãi bỏ quyền làm chủ đất đai. Tất cả đất của nông dân, địa chủ, kỹ nghệ, nhà thờ v.v sẽ bị tịch thu và đặt dưới quyền kiểm soát cuả "nhà nước sô viết". Cũng từ giai đoạn này, khối "cộng sản toàn Nga" bắt đầu vẽ ra bản sơ đồ về các ban, ngành, cục, phòng, sở, khối, ủy ban v.v cho sự vận hành cuả đảng, dự kiến trong tương lai sẽ rất quy mô. Những người thiết kế về tổ chức nội bộ đảng dựa vào mô hình hoạt động cuả hội kín Sáng Tuệ thuở trước, nghĩa là "nhái" theo cách tồ chức cuả giáo hội Công Giáo La Mã từ trên xuống dưới, họ chỉ cần thêm vào các cơ cấu mới để đáp ứng với nhu cầu thực tế, nhưng phải là một kiểu mẫu hợp lý nhất, hữu hiệu nhất không chỉ riêng cho đảng cộng sản Nga, mà còn cho những đảng cộng sản tại các nước khác trong tương lai. Tới thời ông J. Stalin, cấu trúc hoàn chỉnh về tổ chức nội bộ cuả đảng cộng sản Nga có thể thấy được qua vài nét chính như sau:
Nếu giáo hội Công Giáo có vị trí cao nhất là Đức Giáo Hoàng, thì đảng cộng sản có Tổng Bí Thư, cạnh giáo hoàng có một ban cố vấn với vài vị Hồng Y phụ giúp những vấn đề quan trọng, cộng sản có Bộ Chính Trị. Toà thánh Vatican có một Hội Đồng Hồng Y, cộng sản cũng lập ra Ủy Ban Trung Ương Đảng….
Cứ vậy mà "nhái" theo xuống tận cấp thấp nhất là Giáo Xứ với một vị Linh Mục, chịu trách nhiệm về phần hồn cho giáo dân trong khu vực mình, thì cấp thấp nhất cuả cộng sản là Bí Thư một Chi Bộ cấp xã.
Nếu có ai muốn theo đạo Công Giáo, người đó cần phải học giáo lý về đạo với sự hướng dẫn cuả linh mục hay các thầy, các vị trong hội đồng giáo xứ địa phương, người học được gọi là tân tòng trong tương lai, lúc rửa tội phải lấy tên thánh người đỡ đầu thành tên thánh cuả mình. Ngược lại, ai thích cộng sản thì được gọi là cảm tình viên, muốn theo cộng sản phải học sơ đẳng về chính trị qua sự hướng dẫn cuả những đảng viên cấp ủy ở chi bộ cơ sở (xã), người theo học lúc này được gọi là đối tượng đảng, khi làm lễ tuyên thệ vào đảng thì tên người giới thiệu được ghi vô hồ sơ đảng tịch cuả người đó như một người đỡ đầu. Việc xưng tội giữa giáo dân và chủ chăn cũng được cộng sản "nhái" theo là tự phê (bình), tự kiểm (thảo) và hồ sơ ghi các "phê và kiểm" loại đó chỉ có cấp đảng ủy biết, cũng như sự phạm tội và sám hối cuả một giáo hữu khi kể ra chỉ có người linh mục đó biết mà thôi v.v.
Do có những sự "hơi" giống nhau như vậy trong tổ chức giữa công giáo và cộng sản, nên có người cho rằng cộng sản chỉ là sự lộn trái lại cuả đạo công giáo mà người chủ xướng ban đầu là ông Adam Weishaupt.
Ngày 14.1.1918: Sau khi đọc diễn văn ở hội trường Petrograd, ông V. Lenin ra xe ngồi phiá sau tài xế, bất ngờ trong đám đông có người nổ súng bắn vào xe. Người ngồi kế bên dù bị thương vẫn cố gắng đè ông ta sát xuống sàn xe và nằm phủ lên trên, nhờ vậy ông V. Lenin mới thoát chết.
Sau ngày thoái vị, 15.3.1917, gia đình cựu hoàng Nicholas II về sống ở Dinh Alexander thuộc thành phố Tsarskoye Selo, phiá Nam Petrograd khoảng 24 km. Sau đó họ được "chính quyền cách mạng" đưa đi quản thúc tại Dinh Thống Đốc thành phố Tobolsk tỉnh Tyumenoblast.
Ngày 30.4.1918, Ông V. Lenin chỉ thị đàn em đưa gia đinh cựu hoàng Nga đến nhà (kỹ sư) Ipatiev tại thành phố lớn thứ tư cuả Nga là Yekaterinburg để canh giữ.
Đêm 16 rạng 17.7.1918: Toàn gia đình Nga Hoàng Nicholas II (18.5.1868); Hoàng Hậu Alexandra Feodorovna Romanova (6.6.1872) đã bị ông V. Lenin ra lệnh giết chết và chôn xác phân tán nhiều nơi, không để lại dấu vết. Ngoài hai ông bà, những người bị giết chung gồm có một hoàng tử, bốn công chuá, người liên lạc của vua, nàng hầu cuả hoàng hậu, trọn gia đình bác sĩ riêng và nguyên gia đình cuả nguời đầu bếp.
Mãi tới năm 1979, nơi vùi xác những nạn nhân ấy tình cờ được tìm thấy bởi một nhà khảo cổ nhưng cộng sản Nga ra lịnh cấm không ai được nhắc tới chuyện này.
Đến tháng 1.1998, sau khi chế độ cọng sản Nga sụp đổ, di cốt các nạn nhân mới chính thức được khai quật ở vài địa điểm khác nhau, mẫu xương được gởi tới những phòng thí nghiệm để phân tích, so sánh DNA rồi được xác nhận đúng là cuả gia đình cựu hoàng Nicholas II. Ngày 1.10. 2008, Toà Án Tối Cao cuả Liên Bang Nga (Russia Federation) mới công bố gia đình hoàng đế Nicholas II là nạn nhân cuả hành vi đàn áp chính trị và phải phục hồi danh dự cho họ.
Nhân chuyện tàn sát gia đình cựu hoàng đế Nga, chúng tôi xin ghi thêm vài chi tiết về cái chết cuả ông L. Trotsky để bạn đọc thấy thêm bản chất lợi dụng trí thức rồi đào thải hoặc "truy cùng, diệt tận" cuả những "con" người cộng sản. Sau ngày ông V. Lenin qua đời, phe "cộng sản toàn Nga" do ông J. Stalin cầm đầu khởi sự dùng mọi thủ đoạn để loại ông L. Trotsky ra khỏi quyền lực. Từ năm 1925 tới 1927, họ tập trung vây cánh phê phán ông L. Trotsky đủ chuyện, nhưng quan trọng nhất là họ đem các việc cũ ra kết tội ông ta. Tội lớn nhất là "lập trường" không rõ ràng, "tư tưởng" không dứt khoát trước kẻ thù cuả "giai cấp vô sản" là tư bản. Tội lớn thứ hai là đi ngược lại "đường lối" đấu tranh cuả "đồng chí Lenin vĩ đại". Tội lớn thứ ba là làm "chia rẽ" sức mạnh trong nội bộ đảng, làm chậm trễ ngày "thành công" cuả cách mạng v.v và v.v. Ngày 20.10.1927, ông L. Trotsky bị mất ghế trong "bộ chính trị" và loại ra khỏi ủy ban trung ương đảng. Ngày 12.11.1927, ông Trotsky bị tước "đảng tịch" (ra khỏi đảng) và toàn gia đình bị đưa đi "an trí" ở thành phố Alma Ata, Kazakhstan vào ngày 31.1.1928 (ông J. Stalin không dám ra tay tàn độc vì uy tín và ảnh hưởng cuả ông L. Trotsky trong đảng cộng sản Nga còn rất lớn). Ngày 5.2.1929, Gia đình ông L. Trotsky bị trục xuất ra khỏi nước Nga, cả nhà lên xe lưả đi tới thủ đô Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ xin tạm trú. Năm 1933, thủ tướng Pháp là Edouard Daladier (1884-1970) mời ông L. Trotsky đến Pháp sống với điều kiện không được đặt chân tới thủ đô Ba Lê. Ông L. Trotsky vui vẻ nhận lời, ông đến Pháp ở được hai năm thì dọn nhà đi Na Uy năm 1935. Năm 1937, vì cộng sản Nga làm áp lực "ngoại giao" nên chính phủ Na Uy "yêu cầu" ông ta nên rời khỏi nước họ. Cả Âu Châu thờ ơ, chỉ có duy nhất tổng thống Mễ Tây Cơ Lazaro Cardenas (21.5.1895- 19.10.1970) thật lòng có lời mời nếu ông L. Trotsky không chê đất nước họ còn nghèo. Gia đình ông L. Trotsky xuống tàu đến Mễ Tây Cơ ngày 7.9.1937, họ sống trong một căn nhà kín cổng cao tường tại khu vực Coyoacan thủ đô Mexico City. Ở Mễ Tây Cơ chưa được bao lâu, trong năm 1938 ông L. Trotsky đã tuyên bố thành lập Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản (the Fourth Communist International) và tố cáo nước Nga đã rơi vào tay "chủ nghĩa Stalin" (Stalinism- Stalinist).
(Ở một nước Việt Nam xa xôi cũng có những người bị cuốn hút vào tinh thần cách mạng không bạo lực cuả Đệ Tứ Quốc Tế, rồi các vị ấy cũng bị phe cộng sản cuả ông Nguyễn Tất Thành dán cái nhãn là "Tờ- Rốt- Kít" (Trotskist- Trotskism) và họ lần lượt bị ám sát, thủ tiêu, đó là các ông Phan Văn Hùm (1902-1946); Tạ Thu Thâu (1906-1945); Nguyễn An Ninh (1900-1943, chết trong tù Côn Đảo vì bị tù nhân cộng sản hành hạ).
Tận bên Nga, J. Stalin chịu hết nổi nên quyết định bằng mọi giá phải giết cho được ông L. Trotsky, nói cho đúng hơn là giết người bịt miệng. Ngày 5.5.1939, ông L. Trotsky dọn tới nhà mới số 19 Avenida Viena, cũng khu Coyoacan phía Nam thành phố, sau khi cho sửa sang lại để thành nơi cũng thuộc loại "kín cổng cao tường". Ngày 24.5.1940, toán cảm tử cuả ông J. Stalin đặt chân tới Mexico City, họ trang bị vũ khí gọn, nhẹ và được chỉ huy bởi tay đồ tể lừng danh cuả Nga là ông Iosif Romualdovich Grigulevich (5.5.1913- 2.6.1988). Cuộc tấn công chớp nhoáng vào nhà ông L. Trotsky diễn ra trong ngày 24.5 đúng như kế hoạch nhưng thất bại và ông ta thoát chết. Chưa nản, ông J. Stalin thực hiện tiếp lần ám sát thứ hai. Ngày 20.8.1940, một sát thủ lọt vào tận văn phòng với cái buá rìu giấu trong người, ông L. Trotsky bị chém trúng một buá vào đầu nhưng vẫn kịp ôm và vật lộn với kẻ sát nhân. Tới lúc này thì người cận vệ bên ngoài cưả mới nghe tiếng động nên chạy vào tiếp cứu, anh ta khống chế được thủ phạm và toan bắn chết thì ông L. Trotsky đưa tay cản: .."đừng giết hắn, hãy để hắn trả lời trước pháp luật cho công chúng biết mặt thật cuả kẻ sai hắn đến đây"... Chính phủ Mễ Tây Cơ đã cấp tốc đưa ông L. Trotsky vô bệnh viện cứu chữa, nhưng vì vết thương quá nặng và bị mất nhiều máu nên ông qua đời ngày hôm sau, 21.8.1940. Riêng sát thủ Ramon Mercader (7.2.1913- 18.10.1978, gốc cộng sản Tây Ban Nha được Nga tuyển chọn) bị toà án Mễ Tây Cơ kết tội sát nhân chính trị và lãnh 20 năm tù. Sau khi mãn án, năm 1961 ông R. Mercader về đến Nga và được ông Nikita Khrushchev đón tiếp trang trọng, được thưởng "Huân Chương- Lenin", được KGB phong danh hiệu là "Anh Hùng Liên Bang Sô Viết").
30.8.1918: Ông V. Lenin đến dự một cuộc hội thảo cuả công nhân tổ chức ở hội trường Moscow. Lúc bước ra ngoài chuẩn bị lên xe đi về ông bị một phụ nữ bắn ba phát vào người. Viên đạn thứ nhất trúng cánh tay, viên thứ hai chạm nhẹ dưới cằm và ghim vào cổ, viên thứ ba trúng một người đàn bà bên cạnh. Ông ta được cấp tốc đưa về phòng riêng cuả mình trong Điện Cẩm Linh ở Mạc Tư Khoa (Moscow Kremlin Palace). Các bác sĩ Nga cố gắng cứu được mạng ông ta nhưng đầu đạn vẫn còn nằm trong cổ, tới ngày 24.4.1922, đầu đạn mới được lấy ra nhờ cuộc giải phẩu cuả một bác sĩ Đức nổi tiếng, từ đó về sau sức khoẻ ông V. Lenin suy yếu hẳn và phải ngồi trên xe lăn đến khi qua đời vào ngày 21.1.1924. (Cũng như các "lãnh tụ" khác của cộng sản, ông V. Lenin chết đi cũng để lại nhiều huyền thoại. Đối với chúng tôi, huyền thoại lớn nhất mà ông V. Lenin tạo ra là một câu trả lời cuả ông vào năm 1922 trước câu hỏi hóc buá từ đảng viên là... "tại sao tư bản yểm trợ chúng ta" ? Ông V. Lenin đã nói lấp liếm như sau: ..."Quan trọng nhất, chúng ta cần phải ổn định kinh tế cuả mình. Nếu không có máy móc, phương tiện cuả tư bản, chúng ta khó hoàn thành trong thời gian ngắn "thí nghiệm" này. Khi tới thời điểm treo cổ bọn tư bản, chúng sẽ vì ham lợi mà giành nhau bán cho chúng ta sợi dây thòng lọng. Trước mắt tư bản sẽ cung cấp phương tiện qua sự yểm trợ kỹ thuật và dụng cụ mà chúng ta không có, bọn chúng sẽ xây dựng kỹ nghệ chiến tranh cho mình để các cuộc chiến đấu trong tương lai chúng ta mới có riêng nguồn tiếp liệu. Nói cách khác, bọn tư bản đang làm cái việc sửa soạn cho cái chết cuả chính họ".. Đây là huyền thoại lớn nhất không những cuả ông V. Lenin mà còn cuả các "lãnh tụ" cộng sản vì :
(A) Hội kín Sáng Tuệ, Thợ Đá Tự Do, Tam Điểm v.v dưới lớp áo "tư bản" đã đưa vốn cho "quốc tế cộng sản" lập ra nơi thí nghiệm (ở Nga) là để so sánh với xã hội "cộng sản quốc tế" (ở Mỹ), cũng do họ lập ra từ năm 1776. Hội kín (tức "tư bản" Âu Châu) sẽ theo dõi cả hai thứ cộng sản này, giữa chế độ toàn trị tuyệt đối (Nga) và chế độ toàn trị có giới hạn (Mỹ) nhằm tìm ra cũng như tích lũy được sự lợi và hại giữa hai xã hội đó để đi từng bước tới tham vọng thiết lập một chính phủ toàn cầu (hội kín đã lập ra nào Hội Quốc Liên [Liên Hiệp Quốc sau này]; Toà Án Quốc Tế; Ngân Hàng Thế Giới; Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế; Cảnh Sát Quốc Tế v.v cũng trong âm mưu toàn cầu hoá). Vì thế các đảng cộng sản "lon ton" khác chỉ là thứ tay sai nằm trong cuộc thí nghiệm đó (cộng sản ở Việt Nam là một điển hình), họ không đi "làm cách mạng" để cứu người giúp đời như đã rêu rao, họ là những kẻ lợi dụng vào thế thời hỗn loạn (do hội kín tạo ra) để "làm cách mạng" cho chính bản thân mình, nếu may mắn còn sống và thành công thì sẽ có được quyền lực trong xã hội. Những chữ như "độc lập- tự do- hạnh phúc", giải phóng v.v chỉ là cục mồi tuyên truyền, dụ dỗ những người nhẹ dạ.
(B): Một khi "tư bản" bỏ ra số vốn lớn như vậy cho "vô sản" (V. Lenin) làm thí nghiệm (như lời ông ta thú nhận), dĩ nhiên họ phải nắm chắc cái đầu cuả anh "vô sản" đó, từ phần hồn tới phần xác. Và đã gọi là thí nghiệm thỉ kẻ bỏ tiền ra sẵn sàng dẹp bỏ vấn đề "nghiên cứu" đó bất cứ lúc nào. Sau hơn 70 năm làm "thí nghiệm", hội kín chỉ thấy toàn hận thù, ngu dốt, lừa dối, yếu kém, oán than v.v trong xã hội toàn trị cuả "quốc tế cộng sản", hơn thế nữa, việc "thí nghiệm" đã vuột khỏi tầm kiểm soát cuả họ với sự ra đời cuả cộng sản Tàu và Bắc- Hàn, nên "tư bản" hội kín phải dẹp bỏ cái "lò thí nghiệm" máu me đó từ ngày 9.11. 1989 ( ngày bức tường Bá Linh bị đập bỏ) đến ngày từ chức 25.12.1991 cuả ông Mikhail Sergeyevich Gorbachev (Cộng Hoà Liên Bang Xã Hội Chủ Nghĩa Sô Viết- Nga bị giải tán). Nói tóm lại, từ các ông Joseph Vissarionovich Stalin (18.12.1878- 5.3.1953); Nikita Sergeyevich Khrushchev (15.4.1894- 11.9.1971); Leonid Ilyich Brezhnev (19.12.1906- 10.11.1982) cho tới mấy ông như M. K. Gorbachev; Ronald Wilson Reagan (6.2.1911- 5.6.2004); George Herbert Walker Bush; Boris Nikolayevich Yeltsin (1.2.1931- 23.4.2007); William Jefferson "Bill" Clinton; Vladimir Vladimirovich Putin v.v chỉ là những con cờ mà "tư bản" chọn đưa ra cho tiến trình "thí nghiệm" và "thí bỏ" cuả họ bởi những kẻ vừa nêu tên đều nằm trong các hội kín như Sáng Tuệ; Thợ Đá Tự Do; Tam Điểm v.v mà đầu não cuả nó nằm ở một xứ sở "sương mù" là triều đình nước Anh và "ngân hàng" Thụy Sĩ.
Kính thưa vong linh ông V. Lenin: Nếu ông đã thưà nhận mình (Nga) làm "thí nghiệm" nhờ tiền cuả "tư bản". Vậy làm sao ông có thể treo được cổ bọn "tư bản" chớ ? Đúng là chuyện huyền thoại, cũng như "chuyện huyền thoại" về một anh Nguyễn Tất Thành lang bạt đi ... "tìm đường cứu nước" với tờ đơn xin vô học trường đào tạo công chức cuả thực dân Pháp, "chuyện huyền thoại" cũng như đảng cộng sản cuả ông ta "giành độc lập" và "giải phóng" quê hương với kết cuộc như hiện nay vậy ! Thật là điếm nhục và ê chề cho những "danh nhân", "vĩ nhân" một thời được nhân loại tôn xưng !
Ngày 2.3.1919: Ông V. Lenin tuyên bố sự thành lập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, văn phòng đặt ở khách sạn Lux, thành phố Mạc Tư Khoa (the Third Communist International, ngắn gọn hơn có thể đọc Comintern Đệ Tam, là chữ ghép lại từ chín mẫu tự đầu của hai danh từ vừa kể). Ngay lập tức, Quốc Tế Cộng Sản 3 có nhiều tổ chức khắp thế giới xin gia nhập và trở thành hội viên, họ thuộc các nước sau đây: Đảng Xã Hội- Anh; Đảng Lao Động Xã Hội- Anh; Công Nhân Kỹ Nghệ Thế Giới- Anh; Công Nhân Kỹ Nghệ Thế Giới- Úc Đại Lợi; Công Nhân Kỹ Nghệ Thế Giới- Mỹ; Liên Hiệp Công Nhân Kỹ Nghệ Quốc Tế- Mỹ; Đảng Lao Động Xã Hội- Mỹ; Đảng Xã Hội- Mỹ; Hội Spartacus- Đức; Đảng Cộng Sản Áo và Đức; Đảng Công Nhân Cộng Sản Hung Gia Lợi; Đảng Cộng Sản Ba Lan; Đảng Cộng Sản Phần Lan; Đảng Cộng Sản Estonia; Đảng Cộng Sản Latvia; Đảng Cộng Sản Lithuanian; Đảng Cộng Sản Byelorussia; Đảng Cộng Sản Ukraine; Đảng Dân Chủ Xã Hội-Tiệp Khắc; Đảng Dân Chủ Xã Hội và Lao Động- Bảo Gia Lợi; Đảng Dân Chủ Xã Hội- Lỗ Ma Ni; Đảng Dân Chủ Xã Hội- Nam Tư; Đảng Cánh Tả Dân Chủ Xã Hội- Thụy Điển; Đảng Lao Động-Na Uy; Nhóm Klassekampen-Đan Mạch; Đảng Cộng Sản Hoà Lan; Đảng Lao Động- Bỉ; Các nhóm phái Xã Hội và Liên Kết- Pháp; Đảng Dân Chủ Xã Hội- Thụy Sĩ; Đảng Xã Hội- Ý Đại Lợi; Đảng Công Nhân Xã Hội- Tây Ban Nha; Đảng Xã Hội- Bồ Đào Nha; Những tổ chức "công nhân cách mạng" cuả Ái Nhĩ Lan; Vài nhóm thuộc phái Xã Hội-Nhật Bản; Đảng Công Nhân Xã Hội- Trung Hoa; Liên Hiệp Công Nhân Đại Hàn v.v. và v.v. Quốc Tế 3 sau này vẫn tiếp tục có thêm hội viên mới, kể luôn Đảng Cộng Sản ở Việt Nam, trước khi Quốc Tế 3 tuyên bố ngưng hoạt động vào ngày 15.5.1943 vì lý do đang bận đánh Phát Xít Đức. Trong thực tế, Đệ Tam Comintern sau năm 1945 vẫn âm thầm hoạt động vì tôn chỉ (bịp) cuả nó là "yểm trợ cách mạng thế giới" và "cộng sản hoá toàn cầu". Có như vậy nên từ năm 1945, cả cộng Tàu lẫn cộng Việt mới có súng đạn để đi làm loạn. Cơ cấu mà Quốc Tế Cộng Sản 3 thành lập để thế họ làm tiếp công việc đó là Cục Thông Tin Cộng Sản (the Communist Information Bureau- Cominform), thành lập ngày 5.10.1947 tại thủ đô Warsaw Ba Lan. Tới năm 1956, Cominform âm thầm dọn văn phòng về Nga hoạt động đến năm 1980 thì giải tán.
Ngày 21. 4. 1921: Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản cho thành lập ở Mạc Tư Khoa một Ủy Ban Phương Đông (the Eastearn Committee, có người gọi là Đông Phương Bộ) và Trường Đại Học Thợ Thuyền Phương Đông (the Eastern Worker University, the University of the Toilers of the East, cũng có người ghi là Trường Đại Học Công Nhân Phương Đông), hiệu trưởng là ông Karl Bernhardovic Radek (31.10.1885- 19. 5. 1939) và có hơn 130 giảng viên chính trị. Trường này tới ngày 21.10. 1921 mới chính thức "khai giảng", nó chiếm một diện tích gần bốn mẫu tây bao gồm một nhà thờ (bị tich thu) làm hội trường chính, 6 dãy nhà cho "học viên" lưu trú dài hạn trong hơn hai năm, khu nhà bếp, nhà vệ sinh, bệnh xá, nhà kho, một thư viện có hơn 40.000 cuốn sách chọn lọc (tuyên truyền là chính), trường còn được cấp riêng một miếng đất rộng khoảng 50 mẫu tây, cách Mạc Tư Khoa chừng 60 km hướng Đông Nam để "học viên" phải ... "vưà học vưà làm" mà có lương thực nuôi chính mình. Ngày khai giảng trường này có khoảng 800 học viên thuộc hơn 50 sắc dân trên thế giới, nhưng nhiều nhất vẫn là gốc Đông- Á rồi tới Trung- Á; Trung- Nam Châu Mỹ; Bắc- Châu Phi và Đông- Châu Âu. Những người học tại đây được nuôi ăn, cấp áo quần miễn phí, mổi tháng còn được cấp mổi người 5 rúp để tiêu xài lặt vặt bên ngoài, học viên cũng lập ra một tờ tuần báo là tờ "Người Phương Đông" (the Easterner). Phí tổn hoạt động cho trường này, mổi năm Đệ Tam Quốc Tế chi ra một số tiến hơn nữa triệu rúp (một số tiến khá lớn vào thời đó). "Tài liệu học tập" quan trọng nhất ở trường "đại học" này là phương pháp lý luận, nghĩa là nhồi nhét vào đầu người học cách nói chuyện thật hay, hay đến mức "một kẻ đần độn tốt nghiệp ở đây có thể nói như một nhà thông thái" về "Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật sử quan" (the Materialism dialectics and Materialism historic). Những bài học kế tiếp là dạy cách đi làm ... cách mạng mà không cần bằng cấp khoa bảng, chẳng cần vốn liếng trí thức căn bản mà chỉ cần biết khéo léo xúi người khác gây biến loạn giùm mình. Những bài học kế theo là phương thức tổ chức nhân sự, từ các tổ, toán, nhóm ở cấp thấp nhất lúc ban đầu cho đến các phường, hội, mặt trận, lên tới khung sườn cuả một đảng chính trị về sau. Cách thiết kế một khung sườn cuả đảng cũng đòi hỏi sự hiểu biết về sắp đặt chồng chéo, đan kẽ nhau, cái này kiểm soát được cái kia, cái kia theo dõi cái nọ mà không có cái nào biết được mình cũng đang bị theo dõi. Khi khung sườn cuả tổ chức (đảng) đã thành tựu, đảng viên chỉ bám vào đó để hoạt động, sự vận hành cuả toàn hệ thống cứ vậy mà chạy đều đều. Đảng viên nào đi lệch hướng cuả cấu trúc chắc chắn sẽ bị lãnh một hậu quả khốc liệt, không những cho mình mà cho cả người thân, vì họ bị ràng buộc bởi những lời thề độc địa, dễ sợ nhất lúc tuyên thệ vào đảng. Cạnh các "bài học" nêu trên còn có dạy những cách làm khủng bố, từ khủng bố trắng (công khai) qua tới khủng bố đen (bí mật) và khủng bố xám (xúi kẻ khác làm giúp) và khủng bố không nhất thiết phải bằng mã tấu, súng đạn hay thuốc nổ mà trà trộn vào hàng ngũ địch, viết văn, làm báo, nghệ thuật v.v nhằm đối kháng với địch cũng là một hình thức khủng bố, khủng bố bằng văn hoá v.v và v.v. Trường Đại Học Thợ Thuyền Phương Đông hoạt động tới cuối năm 1939 thì đóng cửa. Đóng cửa vì nhu cầu phát triển đô thị cuả Mạc Tư Khoa, nên trường phải phân tán về thủ đô các nước chư hầu trong Liên Bang Sô Viết, nấp dưới nhiều tên khác nhau để tiếp tục dạy cách đi làm cách mạng bằng bạo lực, tới năm 1970 nó mới chính thức bị dẹp vì Liên Sô đã hết sạch tiền. Những người Việt Nam trong thời hỗn loạn đó vào đây học cũng đông, ví dụ như ông Nguyễn Tất Thành (nấp dưới tên chôm là Nguyễn Ái Quắc) khoá 1922-1924; Trần Phú (1904-1931) khoá 1927-1930; Lê Văn Dục (Lê Hồng Phong,1902-1942) khoá 1928- 1931; Hà Huy Tập (1906- 1941) khoá 1929- 1932; Nguyễn Thị Vịnh (Nguyễn Thị Minh Khai, 1910- 1941) khoá 1934- 1936; Trần Văn Giàu (1911- 2010) khoá 1931- 1933; Bùi Công Trừng (1905- 1986) khoá 1927- 1929; Dương Bạch Mai (1904- 1964) khoá 1929- 1932 v.v.
KẾT LUẬN.
Những người kể trên, là những cá nhân nổi bật nhất trong giai đoạn tiên khởi đã thiết kế nên khung sườn cho đảng cộng sản ở Việt Nam, mà lớp đảng viên hậu thế mới có chỗ bám vào đó để tàn phá, đục khoét đất nước đến tận hôm nay, 2012. Trừ ông Nguyễn Tất Thành, những người còn lại trong nhóm kể trên đều là kẻ có học (trường Tây, trường Tàu) trước khi là người "cộng sản". Nhưng trước tất cả, họ là những người thật sự có tấm lòng đối với quê hương lúc dân tộc bị lầm than, tủi nhục dưới cái ách thực dân. Những vị đó đã hiến dâng trái tim, lý tưởng cuả mình một cách chân thành khi đi tìm một phương kế có thể đập tan xích xiềng cuả kẻ thống trị trên đất nước. Tiếc thay họ đã trao đời mình cho một "học thuyết" không bao giờ có thật, một kịch bản dàn dựng về "chủ nghĩa" được bàn tay phù thủy cuả hội kín Âu Châu vẽ vời ra dười ngòi bút cao ngạo cuả ông trí thức Karl H. Marx, và chính ông này tới lúc nhắm mắt cũng còn ngây thơ không biết kiến thức mình bị lợi dụng, bị lừa. Vì là trí thức, nên phải biết ý thức giữa đúng và sai, việc nào thiện và điều gì là ác. Đối với "cộng sản", đã có học thức và còn nhận thức được Chân- Thiện- Mỹ cuả lẽ sống, dứt khoát người đó không thể chung đường với kẻ nương theo lưả cách mạng và dùng bạo lực để mưu tìm quyền lực. Vì lẽ đó, các vị nêu trên đã bị những kẻ vô lại, lưu manh lợi dụng giai đoạn đầu đến khi khung sườn cuả tổ chức đã thành hình, sau đó họ bị chúng mượn tay thực dân Pháp loại ra dần bằng các thủ đoạn bắn tin cho địch biết nơi cư trú, nơi hội họp, chỗ lui tới, nguồn gốc bản thân, hoặc lợi dụng vào chữ "lập trường" để bỏ tù, giết lén, bỏ đói, cô lập (tới đời con cháu) v.v như Huỳnh Thúc Kháng (1876- 1947); Phan Khôi (1887- 1959); Hữu Loan (1916- 2010); Nguyễn Mạnh Tường (1909- 1997) v.v. Và dù có những trí thức nào đó còn giữ lại trong nội bộ thì cũng bị vô hiệu hoá, có chức danh to nhưng chẳng có thực quyền, đó là trường hợp cuả các ông Võ Giáp (Võ Nguyên Giáp); Trần Văn Giàu; Bùi Công Trừng; Trương Gia Triều (Trần Bạch Đằng (1926- 2007); Nguyễn Văn Trấn (1914- 1998); Dương Bạch Mai (chết vì thuốc độc khi dám nói trước "quốc hội": .."đảng cai trị đất nứớc như kiểu trại lính"..) v.v.
Nói tóm lại cho gọn, con đường mà ông Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh 189?- !969) đi "tìm đường cứu nước" quả là con đường bi đát cho cả một dân tộc. Theo sau ông gồm những học trò không cần học thêm chữ như Nguyễn Công Viễn (Lâm Đức Thụ, 1890- 1947); Nguyễn Trọng Cảnh (Trần Quốc Hoàn, 1916- 1986); Nguyễn Kim Thành (Tố Hữu, 1920- 2002); Phan Đình Khải (Lê Đức Thọ, 1911- 1990); Đặng Xuân Khu (Trường Chinh, 1907- 1988); Lê Văn Nhuận (Lê Duẩn); Nguyễn Cống (Đỗ Mười); Phạm Văn Thiện (Phạm Hùng, 1912- 1988); Lê Đức Anh; Văn Tiến Dũng (1917- 2002); Nguyễn Phú Trọng v.v. Cái đảng mà các ông giương cờ đỏ đi trên máu xương cuả giống nòi, cấu trúc cuả nó từ đầu được thiết kế theo khuôn mẫu ở Nga, mà Nga thì học theo sự hướng dẫn cuả ông Adam Weishaupt và ông này đã nói .. "chỉ có bạo lực mới chiếm được quyền lực".. Vì thế cái đảng "cộng sản" mà ngày nay đang tiếp tục đè đầu dân tộc Việt Nam, từ nguyên thủy, nó đã được tạo ra vì mục đích bạo lực thì mổi ngày càng tích lũy thêm nhiều bạo lực, cuối cùng sẽ thành nơi tập trung, ẩn nấp cuả một thiểu số nhiều mưu trí và tàn độc nhất chỉ biết duy trì bạo lực để tồn tại . Với nguyên tắc đối kháng là: số ít dùng bạo động để thu phục số đông, vì vậy, cái đảng đó buộc phải đi tới giai đoạn chót là sẽ đối diện với số đông tới phiên mình lấy bạo động khuất phục số ít ! Nhưng khổ cho các ông là càng sợ vì tội ác thì càng bám chặt vào cái khung sườn đó. Và càng ôm cứng thì sự lưà dối thêm chồng chất, tội ác cũng dày thêm cho tới lúc các ông ra đi. Hôm nay cái khung sườn mục nát ấy, cái cỗ máy bạo hành có từ thế kỷ thứ 18 đó, dù được vá víu, bưng bít, che đậy, sơn phết đủ thứ lên trên nhưng nó không thể che dấu được một sự thật là, càng ngày người ta càng thấy có thêm nhiều những hành động côn đồ, phi luân, vô liêm sĩ, từ bọn du côn thuê mướn ngoài đường cho tới lớp chóp bu trong đảng, những kẻ ngồi ghế "lãnh đạo" cuả quốc gia và ngồi trên đầu cuả một dân tộc. Một đảng được lập ra với nền tảng là lừa dối và bạo tàn, đương nhiên từ dưới lên đến nóc cũng phải "xây dựng đảng" theo "đường lối" gian manh và tàn bạo. Còn gì để nói nữa ?
Còn chớ ! Hôm nay, 2024, những "cán bộ" cao cấp trong đảng cộng sản ở Việt Nam, như "truyền thống", họ giữ luôn các chức vụ cấp cao trong "chính quyền" dân sự, cũng là cánh tay bên ngoài cuả đảng. Lớp người này phần lớn là con là cháu cuả thế hệ "cán bộ" thời đảng mới tượng hình, hoặc thời chiến tranh từ 1945 đến 1975. Đó là những Nông Đức Mạnh; Tô Huy Rưá; Đỗ Hữu Ca; Nguyễn Tấn Dũng; Nguyễn Phú Trọng; Phan Văn Khải; Nguyễn Minh Triết v.v mà tư cách, trình độ, khả năng của họ ra sao thì dư luận thế giới cũng đã thấy rõ rồi : "họ là những 'đại diện' tiêu biểu cho 'chính phủ' cuả một quốc gia, cũng chức tước rềnh rang, cũng 'com lê- cà vạt' đàng hoàng nhưng họ không che giấu được bản chất lưu manh, côn đồ hạ cấp trong giao thiệp và lời ăn tiếng nói". Họ được đảng cho kế thừa và núp bóng theo "sự nghiệp" cách mạng cuả cha, chú họ trong quá khứ mà cha, chú họ đã sai lầm và tạo nhiều tội ác từ ngày cộng sản có mặt ở Việt Nam. Vì lẽ đó, sai lầm cứ nối theo sai lầm, nói láo- làm dối vẫn tiếp tục tạo ra sự gian trá và ngụy biện, tội ác cứ triền miên sinh ra tội ác v.v, và tới nay những tai họa ấy đã chiếm hết các ngõ ngách trong nội bộ đảng, tệ hại hơn, nó còn lây nhiễm ra toàn xã hội mà người dân Việt Nam phải gánh chịu trong nhục nhã trước công luận quốc tế. Vậy mà, những người được coi là cấp "lãnh đạo" trong đảng, dù đã thấy hết sự thật cay đắng và ê chề trong "lịch sử" cuả đảng, nhưng họ vẫn cứ tiếp tục tung hô "bác và đảng" đã có công "giành độc lập, giải phóng" đất nước, "đảng là nơi quy tụ những đứa con trung thành và xuất sắc nhất tổ quốc, "đảng luôn "bảo vệ quê hương tổ quốc" và "kẻ thù nào cũng đánh thắng" v.v và v.v !
Để kết thúc bài biên khảo này, chúng tôi có một câu hỏi thật ngắn, rất đơn giản, để xin hỏi hết tất cả đồng bào Việt Nam và kể cả những đảng viên cộng sản đang hoạt động trên đất nước này. Câu hỏi ấy chắc chắn trong lương tâm từng người dân nước Việt sẽ có câu trả lời, cũng như sẽ thấy chân tướng thật sự đảng là ai ?
"NẾU ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM QUẢ QUYẾT RẰNG: SỰ RA ĐỜI VÀ TỒN TẠI CUẢ ĐẢNG LÀ DO BIẾT GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ YÊU NƯỚC, ĐÃ HY SINH VÀ CHIẾN ĐẤU VÌ DÂN, VÌ NƯỚC. NÊN ĐẢNG RẤT XỨNG ĐÁNG LÀ NGƯỜI TIẾP TỤC LÃNH ĐẠO VÀ XÂY DỰNG TỔ QUỐC VIỆT NAM".
"VẬY THÌ NGAY LÚC NÀY ĐÂY, CHÚNG TÔI, NHỮNG NGƯỜI DÂN NƯỚC VIỆT, YÊU CẦU ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM HÃY CHỨNG MINH, HÃY TRƯNG BẰNG CỚ ĐỂ CHÚNG TÔI THẤY LÒNG YÊU NƯỚC ĐÓ NHƯ TRONG QUÁ KHỨ MÀ ĐẢNG NHIỀU LẦN XÁC NHẬN" ? HÃY TRẢ LỜI ĐI !
"NẾU KHÔNG CHỨNG MINH ĐƯỢC BẰNG LỜI NÓI HAY HÀNH ĐỘNG, THÌ LÚC THÀNH LẬP CHO TỚI HÔM NAY, ĐẢNG CỘNG SẢN TẠI VIỆT NAM KHÔNG HỀ CÓ LÒNG YÊU NƯỚC, CHẲNG CÓ TÌNH NGHĨA GÌ ĐỐI VỚI QUÊ HƯƠNG DÂN TỘC, MÀ ĐẢNG THẬT RA CHỈ LÀ MỘT PHƯƠNG TIỆN, LÀ NƠI TẬP TRUNG NHỮNG KẺ LƯỜNG GẠT, LỢI DỤNG LÒNG YÊU NƯỚC CUẢ ĐỒNG BÀO RỒI CƯỚP ĐOẠT ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM CUẢ CHÚNG TÔI" ! NÓI TRẮNG RA, ĐẢNG CỘNG SẢN Ở VIỆT NAM CHỈ LÀ MỘT BĂNG ĐẢNG HỘI KÍN. DO MỘT BỌN VÔ HỌC, LƯU MANH, ÁC ĐỘC LẬP RA ĐỂ LÀM SUY VONG ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM
Kính thưa bạn đọc.
Chúng tôi là những người lính, tuổi thanh xuân phải bước ra chiến trường lưả đạn và tiếp theo là tù đày khổ sai vì cộng sản, vốn liếng trí thức vì thế chẳng được cao rộng như những người may mắn được học hành đầy đủ ở hậu phương. Chúng tôi tuy cố gắng hết mình để hoàn tất bài biên khảo này, nhưng chắc chắn vẫn có nhiều thiếu sót trong việc tham khảo, tìm kiếm tài liệu v.v để ghi chép cho đầy đủ như chúng tôi mong muốn. Xin bạn đọc thông cảm, lượng thứ cho các chi tiết, dữ kiện nào đó mà chúng tôi ghi chép thiếu hoặc không chính xác. Chúng tôi rất mong muốn nhận được sự đóng góp những ý kiến cuả quý vị, hãy lên tiếng nếu có người thấy được chỗ nào sai để bài biên khảo này được hoàn chỉnh hơn, được đầy đủ thêm nữa cho thế hệ trẻ có điều kiện hiểu rõ hơn về giai đoạn khốc liệt nhất, tang thương nhất trong lịch sử Việt Nam. Chúng tôi cũng mong quý vị cùng giúp sức phổ biến bài biên khảo này đến khắp chốn, nhất là giúp đưa đến tận tay đồng bào ở trong nước, nơi rất thiếu thốn các tài liệu, dữ kiện v.v để biết thêm về nguồn gốc thật sự của cộng sản ở Việt Nam.
Riêng vấn đề sách tham khảo (liệt kê phiá dưới), các loại sách mà chúng tôi có sẽ không bao giờ có trong các thư viện chính thức cuả những "chính phủ" ở Âu Châu và nước Mỹ. Đơn giản chỉ vì chẳng có thứ chính phủ nào muốn dân chúng biết được các thủ đoạn đen tối cuả họ, vì vậy sách chúng tôi có là do mua tại tiệm, mua trên mạng toàn cầu và tác giả là những trí thức, học giả, khoa bảng tên tuổi nổi bật qua các công trình nghiên cứu riêng cuả họ, mà nhà cầm quyền cấm không đưa vào thư viện. Cách tốt nhất, bạn đọc có thể tìm theo tựa sách để xem trên mạng, nếu muốn mua riêng hãy liên lạc với tác giả nơi trang nhà cuả tựa sách.
Chào kính trọng.
Chép xong trong đêm tăm tối 30 tháng 4, rạng sáng ngày 1 tháng 5. 2024.
Thay mặt nhóm biên soạn.
Biệt Động Quân Đỗ Như Quyên.
===
NGUỒN THAM KHẢO:
Để tìm hiểu thêm về vấn đề hội kín Âu- Mỹ mà chúng tôi trích dẫn, ngoài các tựa sách đã ghi trong nội dung, xin đọc thêm ở những cuốn
:- "Prince of Darkness", Grant R. Jeffrey, 1994.
- "And the Truth Shall Set You Free", David Icke, 2001.
- "The Biggest Secret", David Icke, 2000.
- "Secret Societies of America's Elite", Steven Sora, 2003.
- "Conspiracies and Secret Societies", Brad Steiger và Sherry Steiger, 2006.
- "Secrets of the Temple", William Greider, 2007.
- "Up Against the American Myth", Tom Christoffel- David Finkelhor- Dan Gilbarg, 1970.
- "Who Stole The American Dream ?" , Burke Hedges, 1992.
- "Wake- Up America", Robert L. Preston, 1975.
- "Who Rules America ?", William G. Domhoff, 1967.
- "Who Owns America ?", Walter J. Hickel, 1972.
- "Who's Running America ?", Thomas R. Dye, 1986.
- "Rule By Secrecy", Jim Marrs, 2001.
- "Cloning of the American Mind", B. K. Eakman, 1998.
- "The Invisible Government", David Wise và Thomas B. Ross, 1964.
- "Freemasonry and it Ancient Mystic Rites", C. W. Leadbeater, 1986.
- "Freemasonry and it Etiquette", William Preston và Campbell Everden, 2001.
- "The New World Order", Pat Robertson, 1991.
- "America: What Went Wrong ?", Donald L. Barlett và James B Steele, 1992.
- "Lies and the Lying Liars Who Tell Them", Al Franken, 2003.
Để đọc thêm về các bí ần trong cuộc cách mạng ở Mỹ và Nga, xin tham khảo thêm ở:
- "Secret History of the American Revolution", Carl Van Doren, 1969.
- "Presidents Above Party", Ralph Ketcham, 1987.
- "Russia's Road to the Cold War", Vojtech Mastny, 1979.
- "Stalin- Triumph and Tragedy, Dmitri Volkogonov, 1991.
Về giáo hội Công Giáo và đế quốc La Mã, tham khảo thêm nơi các cuốn:
- "The Rise of the West", William H. McNeill, 1963.
- "The Romans, 850 B.C - 337 A.D", Donald R. Dudley, 1993.
- "The Christ Conspiracy", Acharya. S, 1999.
- "The Catholic Myth", Andrew M. Greeley, 1997.
- "The Vatican Connection", Richard Hammer, 1982.
Tìm hiểu thêm về Tư Dụng Liên Bang, xin đọc:
- "The Federal Reserve and our Manipulated Dollar", Martin A. Larson, 1978.
- "American Symbols- The Seals and Flags of the Fifty States", M. B. Schnapper, 1975.
----------
Ý kiến đóng góp và bài vở xin gởi đến This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it. - Cám ơn |